Nhà thơ phản chiến Nguyễn Bắc Sơn

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2014.10.18
10505621_305074589659560_5678516163442659039_622.jpg Chân dung Nhà thơ phản chiến Nguyễn Bắc Sơn.
Courtesy FB Nguyễn Bắc Sơn

 

Nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn sinh năm 1944 tại Phan Thiết, ông tên thật là Nguyễn Văn Hải rất nổi tiếng với những bài thơ có phong cách rất riêng không lẫn với bất cứ một tên tuổi nào. Bài thơ đầu tiên của ông được đăng trên tạp chí Khởi Hành để bắt đầu từ đó người yêu thơ Việt Nam theo chân từng bài thơ ông dẫn dắt khám phá thêm những vùng đất trù phú phù sa thi ca nhưng cũng đậm đặc mùi thuốc súng của một cuộc chiến mà nhà thơ luôn muốn đứng bên ngoài.

Nguyễn Bắc Sơn là người lính ở bên này vĩ tuyến nhưng đồng thời ông cũng có người cha đang cầm súng ở phía bên kia. Bi kịch chiến tranh khiến ông chọn thái độ từ khước nó là điều có thể hiểu được để từ đó mở ra một cánh cửa giải thích thái độ của một ngòi bút phản chiến mang tên Nguyễn Bắc Sơn, từng một thời gây sóng gió trong văn học Việt Nam bên này con sông Bến Hải.

Ngông nghênh, ngang tàng, hài hước

Người biết và yêu thơ Nguyễn Bắc Sơn có thể nói không đếm hết nhưng có lẽ thanh niên, sinh viên là giới để ý đến thơ ông nhất bởi cái ngông nghênh, ngang tàng, hài hước mà lại nghiêm trang đã chinh phục họ, những chàng thanh niên đang thực tập những bước chân đầu tiên trên từng bậc thang của chiến tranh Việt Nam.

Miền Bắc lúc ấy hoàn toàn không có lấy một văn nghệ sĩ nào sáng tác theo khuynh hướng phản chiến. Đối với văn nghệ sĩ thì cuộc chiến với miền Nam lúc ấy là cuộc chiến tranh thần thánh và mục đích tối hậu là phải chiến thắng. Trong khi đó tại miền Nam, một nền dân chủ mới được thiết lập không cho phép chính quyền cấm đoán triệt để những sáng tác mang tính chất phản lại cuộc chiến được mang tên bảo vệ thế giới tự do.

Nếu nhạc Trịnh Công Sơn dẫn đầu trong tính cách chống chiến tranh qua xác chết thì thơ Nguyễn Bắc Sơn tuy rón rén và nhẹ nhàng hơn nhưng trong từng bài của ông người đọc cũng nghe thấy rất rõ tiếng thở dài thườn thượt từ bài đầu tới bài cuối trong tập thơ “Chiến tranh Việt Nam và tôi” xuất bản tại Sài Gòn vào năm 1972.

Tiếng thở dài ấy kéo theo tâm trạng phủ nhận và Nguyễn Bắc Sơn chưa bao giờ từ chối tính cách phản chiến trong thơ mình, ông nói với chúng tôi:

“Mình trốn lính rồi bị bắt đi bây giờ dùng chữ phản chiến là đúng đó! Đúng là thơ phản chiến. Mình làm thơ hồi hăm mấy tuổi, lúc đầu gửi cho tờ báo khởi hành và một số báo khác. Bây giờ thì hết làm được rồi, gãy cánh rồi!

Người ta đại bàng người ta gãy cánh như Trịnh Công Sơn, Bùi Giáng… còn mình là chim sẻ chim sâu thì xệ cánh rồi. Mình không gửi bài đi đầu hết nhưng nếu mình gửi thì báo nó đăng liền.”

Nhà thơ phản chiến Nguyễn Bắc Sơn.
Nhà thơ phản chiến Nguyễn Bắc Sơn.

Thái độ phản chiến của nhà thơ không hằn học, cục cằn. Ông né tránh nó với tâm trạng của một người ý thức được sự vô ích và khó hiểu của chiến tranh. Tâm trạng nhà thơ là tâm trạng chung của rất nhiều thanh niên lúc ấy không chấp nhận chiến tranh như một phương tiện giải quyết bế tắc chính trị và họ phủ nhận chiến tranh như phủ nhận thần chết.

Nguyễn Bắc Sơn có cái nhìn trong suốt của một nhiếp ảnh gia trước bức tranh sáng sớm quê hương Phan Thiết của ông. Những hình ảnh đó rất đời thường, đẹp bình dị và lung linh như lụa. Bức tranh ấy là thước phim quay chậm chính hình ảnh của ông từ lúc là một chú bé mê đá dế cho tới khi trở thành một người lính, vô tư bật diêm đốt điếu thuốc trong ngày sau một đêm phục kích chờ giết giặc.

Trong túi quần cậu học trò tiểu học

Có con dế than nồng nàn mùi đất ướt

Gáy lên đi ta

Gáy rung rinh làm rụng những lá me non.

Gáy niềm vui tích tắc trong trái tim chàng

Người lính đêm qua đi kích về gác chân lên

Chiếc xe chở đầy những ổ mì vàng nóng hổi

Cười nụ cười đầu tiên trong ngày.

Và bật que diêm đốt thuốc

Những than vãn rất dễ thương

Nguyễn Bắc Sơn có những than vãn rất dễ thương. Không ai trách móc ông tại sao lại chán chê chuyện lính tráng, thay vào đó là ánh mắt thiện cảm dành cho một thiền sư, thiền sư trốn lính:

Ðời bắt một kẻ làm thơ như ta đi làm lính

Bắt lê la mang một chiếc mu

Nên tâm hồn ta là một cánh đồng úng thủy

Và nỗi buồn như nước những đêm mưa

Trong thành phố này ta là người phản chiến

Ngày qua ngày ta chỉ thích đi câu

Râu tóc mọc dài như bầy cỏ loạn

Sống thật âm thầm, ai hiểu ta đâu

Dù đôi khi ta lên núi Tà Dôn uống rượu

Trời đất bao la ta chỉ có một mình

Mình trốn lính rồi bị bắt đi bây giờ dùng chữ phản chiến là đúng đó! Đúng là thơ phản chiến. Mình làm thơ hồi hăm mấy tuổi, lúc đầu gửi cho tờ báo khởi hành và một số báo khác. Bây giờ thì hết làm được rồi, gãy cánh rồi!
-Nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn

Thơ tình của Nguyễn Bắc Sơn cũng thuyết phục như thơ phản chiến của ông. Có điều khi đọc người ta chỉ thấy hình bóng của vợ ông trong đó, những cô gái khác không có cơ hội lấn vào trái tim ông. Diễn tả về người bạn đời từ đó đến nay ông có những câu chữ thật dễ thương, dễ xúc động nhưng cũng đượm buồn:

Lòng vui sướng như một chiều nắng tốt

Cầm tay em chầm chậm bước qua sông

Tà áo em buồm trắng đã căng phồng

Những tình ý một đời chưa nói hết

Trong thành phố này từ lâu anh vẫn biết

Ở đâu đây còn chảy một dòng sông

Ở đâu đây còn có mặt trời hồng

Có bến tịnh đậu con thuyền trôi nổi

Thời tuổi nhỏ đời anh buồn quá đỗi

Nhà anh nghèo ngày không đủ cơm ăn

Mẹ hai tay lau nước mắt nhọc nhằn

Cay đắng quá đàn con đâu có biết

Khi lớn khôn nhiều đêm anh hối tiếc

Ðã bao ngày mê mải với văn chương

Nhưng bất tài không viết nổi tình thương

Của người mẹ tóc dài đang nhuốm tuyết

Em cũng biết tình yêu anh bát ngát

Và ngây thơ như đồng mía lau say

Biết ngày xưa anh là ngọn gió tây

Thổi quanh quẩn con đường nhà em mỗi tối

Ta về với nhau vợ chồng không đám cưới

Khi em thành sương phụ áo màu đen

Anh bán đi chồng sách quí nuôi em

Cuộc tình hai ta sao cũng buồn quá đỗi

Khu vườn nhà ta sáng nay có nhiều lá mới

Những lá già rã mục tự hôm qua

Trong lòng anh cũng nở một bông hoa

Ðóa hoa chỉ mỗi mình em ngó thấy

Nguyễn Bắc Sơn không làm thơ chỉ để yêu em mà ông còn yêu người khác nữa. Đối với bạn bè và tha nhân người thơ rất hào phóng gửi cho họ những món quà bất ngờ, những món quà khác thường mà họ từng nhận được trong đời:

Trong gói quà

Có núi có sông

Có rừng có biển

Có những sinh vật dễ thương

Có âm thanh và ánh tượng

Có một Việt Nam

Quằn quại trong cơn đau

Có khí thế đang lên

Xây đời hậu chiến

Ðiều ta tặng chính là một bài thơ hay

Kẻ làm thơ chính trực

Là kẻ tặng mọi người

Những gì y có

Sau cùng còn cái mạng không

Y tặng nốt cho người y yêu.

Núi sông ấy là của Việt Nam

Khi tặng núi tặng sông cho mọi người nhà thơ chỉ muốn nhắc nhở người mà ông yêu mến rằng núi sông ấy là của Việt Nam và núi sông ấy đang rướm máu.

Nguyễn Bắc Sơn thành thật nghĩ rằng sự rướm máu ấy do lòng thù hận, phân cách gây ra. Ông đứng ngoài cái vòng ấy và ông phản chiến. Hãy nghe ông nói với các con của mình:

Khi các con khôn lớn thế nào cũng nghe kể chuyện đời ba

Chuyện một nhà thơ yêu hòa bình nên bị đời cho đi khiêng đạn

Khi chiều xuống, bụi mù trời trên ngọn đồi ba đóng

Ba bắt đầu thương nhớ các con ba

Dù ở tiểu khu này ba là tên tiểu tốt

Nhưng các con nên tự hào ở tấm lòng ba

Ôi câu chuyện người anh hùng lỡ vận

Nên bụi đời cùng những kẻ ngu phu

Ðó là câu chuyện đời ba các con cần phải nhớ

Ôi một quãng đời dài lê bước ưu du

Ba không cực lòng khi bị đời khinh rẻ

Con đường ba đi đã chọn từ lâu

Nhưng khi nhìn những đám hoa râm trên đầu tóc nội

Ba đã khóc thầm khi nghĩ đến mai sau

Rồi mai mốt khi các con đã lớn

Hãy tìm trong trang nhục sử Việt Nam

Ðể thấu hiểu vì sau ba khổ cực

Vì sao nên đất nước lầm than

Vợ chồng Nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn chụp ảnh lưu niệm cùng bạn bè thân hữu hôm ra mắt Quán Văn 23-Nguyễn Bắc Sơn tại Phan Thiết ngày 28/06/2014.
Vợ chồng Nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn chụp ảnh lưu niệm cùng bạn bè thân hữu hôm ra mắt Quán Văn 23-Nguyễn Bắc Sơn tại Phan Thiết ngày 28/06/2014.

Nguyễn Bắc Sơn sống cùng thời với Tô Thùy Yên vì vậy có lẽ ngôn ngữ thơ hai người man mác tạo cho chúng ta cảm giác gần gũi. Bài “Anh hùng tận” của Tô Thùy Yên và “Thảo khấu”  của Nguyễn Bắc Sơn có thể đại diện cho một dòng thơ chiến tranh đẫm chất bi tráng của lịch sử Việt Nam cận đại.

Nếu Nguyễn hỏi: “Vì sao ngươi đến đây làm giặc, đóng trò tráng sĩ loạn Xuân Thu?” thì Tô thi sĩ có câu trả lời bốp chát: “Tới đây toàn những tay hào sĩ / Sống chết không làm thắt ruột gan / Cũng không ai nhắc gì thân thế / Có vợ con mà như độc thân.” Hai bài thơ, hai tâm trạng nhưng cùng nói về một hình ảnh chiến tranh với bao đau thương của nó:

Buổi sáng xuất quân về phương Bắc

Âm thầm sương sớm toán quân ma

Qua cầu Sông Lũy nhìn quanh quất

Nước đỏ cầu đen chợt nhớ nhà

Nước reo bèo dạt mặt trời lên

Khói núi lời ca chú dế mèn

Cỏ gió cao che đầu tráng sĩ

Thanh cầu gõ súng nhạc leng keng

Vì sao ta tới đây hò hét

Học trò bẻ bút tập cầm gươm

Tập uống máu người thay nước uống

Múa may theo lịch sử điên cuồng

Vì sao người đến đây làm giặc

Ðóng trò tráng sĩ loạn Xuân Thu

Giận đời ghê những bàn tay bẩn

Ðưa đẩy người trong cát bụi mù

Buổi chiều uống nước dòng Ma Hí

Thằng Xuân bắn chết thằng Mang Khinh

Hỡi ơi sống chết là mưa nắng

Gió tối mưa đêm chớ lạnh mình

Ðốt lửa đồi cao không thấy ấm

Lính Chàm giận ghét Chế Bồng Nga

Chiến chinh chinh chiến bao giờ dứt

Sắt đá ồ sao lại nhớ nhà?

Niềm tin ngây thơ

Nguyễn Bắc Sơn có cha tập kết và cha ông cũng là niềm cảm hứng của nhà thơ trong nhiều câu chữ của mình. Người cha ấy sau cùng cũng gặp được con và buồn thay, Nguyễn Bắc Sơn gặp cha trong tâm tình của một người lận đận, vỡ òa thất vọng. Với một chút hài hước thường lệ ông cười cợt trên niềm tin ngây thơ của cha cũng như của chính ông trong cuộc đời thi sĩ:

Bố tôi qua đời đúng năm năm
Tôi viết bài thơ này để tâm sự cùng một người khuất núi
Thuở sinh tiền
Ông rất thương tôi
Và tôi rất thương ông
Nhưng hai chúng tôi
Đúng là hai người đàn ông có bề ngoài lãnh đạm.
Bố tôi ước mơ làm cho loài người sung sướng
Và thế là ông từ tuổi thanh xuân
Cùng bạn bè đi làm cách mạng
Ông càng làm cách mạng chừng nào
Thì loài người càng thêm sặc máu

Tôi ước mơ cõi đời tốt dẹp
Và thế là tôi làm thơ ca tụng loài người
Tôi càng ca tụng chừng nào
Thì loài người càng xấu xa chừng nấy.

Nhầm lẫn của cha ông được trả bằng hai chữ “sặc máu” vừa buồn cười vừa cay đắng. Không một chút trách móc nặng nề nào và người ta chỉ thấy tê tái và buồn.

Còn sự ngây thơ ca tụng loài người của thi sĩ chỉ phải trả bằng hai chữ “xấu xa”. Xấu xa với ý nghĩa tự trào, biếm nhẽ lấy mình, khi thực tâm thi sĩ vẫn nghĩ đời rất đẹp.

Nguyễn Bắc Sơn có lẽ là thi sĩ phản chiến hồn nhiên nhất và cũng nhân bản nhất. Ông sợ chiến tranh làm non sông rướm máu. Ông làm thơ phản chiến với một ý thức duy nhất là tránh cưộc chiến càng xa thì đồng bào ông càng ít chết chóc, trong đó có bạn bè đồng ngũ. Ông mơ một ngày ngồi lại với nhau cả người sống lẫn người đã chết, chỉ đơn giản nâng ly cám ơn cuộc đời và gậm nhấm chút hạnh phúc sót lại sau cuộc chiến:

Bóng bồ câu gù trên đầu ngọn tháp

Ai chèo thuyền câu cá giữa dòng sông

Vẫn còn đây bóng dáng chiếc cầu cong

Ðây có sẵn rượu bia đồ nhắm tốt

Các bạn cũ những thằng nào vô phước

Mồ đang xanh vì cuộc chiến hôm qua

Hãy về đây mà say khướt cùng ta

Này bóng mây cao, này vòm lá thấp

Con đường phố người anh em tấp nập

Một người này yêu một chút người kia

Tay ấm trong tay chân ấm viả hè

Trái tim ấm lửa tình người ấm áp

Người sống sót nâng ly mời kẻ khuất

Lại gần đây trên bãi cỏ bờ sông

Soi mặt mình trong dòng nước xanh trong

Ðể nhìn thấy hình bản lai diện mục

Cởi áo trận và hoa mai ném tuốt

Xin giã từ đời vũ khí huy chương

Xin trở về như một kẻ hoàn lương

Xin vứt hết, xin bắt đầu lại hết.

Nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn đã vứt hết, đã bắt đầu lại từ hơn 40 năm qua nhưng có lẽ ông vẫn chưa tìm thấy những gì mà trong suốt thời kỳ chiến tranh ông tìm kiếm: cõi bình an đích thực của một người thơ mơ mộng như ông.

Nhận xét

Bạn có thể đưa ý kiến của mình vào khung phía dưới. Ý kiến của Bạn sẽ được xem xét trước khi đưa lên trang web, phù hợp với Nguyên tắc sử dụng của RFA. Ý kiến của Bạn sẽ không xuất hiện ngay lập tức. RFA không chịu trách nhiệm về nội dung các ý kiến. Hãy vui lòng tôn trọng các quan điểm khác biệt cũng như căn cứ vào các dữ kiện của vấn đề.