Sự thật của tự do tôn giáo tại Việt Nam
2001.06.07
Lời giới thiệu: Gần cuối tháng trước, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã cho lệnh hơn 600 công an đến nhà thờ giáo xứ An Truyền vây bắt cha Nguyễn Văn Lý. Đầu tháng này, họ lại ra lệnh quản chế Hòa Thượng Quảng Độ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo của Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất Việt Nam, bắt giam 3 giáo chức khác của Giáo Hội này là các Thượng Tọa Thích Không Tánh, Thích Quảng Huệ, Thích Tâm Ấn, đồng thời phong tỏa để cô lập hàng trăm ngôi chùa ở nhiều tỉnh ở miền Trung. Những hành động trắng trợn xâm phạm nhân quyền này của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã bị dư luận người Việt, dư luận quốc tế đồng thanh lên án. Nhưng Hà Nội, thông qua các cơ quan truyền thông quốc doanh và phát ngôn viên bộ Ngoại giao, đã ngụy biện để khẳng định rằng ở Việt Nam không hề có đàn áp tôn giáo. Vậy đâu là sự thật? Sau đây là bài phân tích của ông Trần Thanh Hiệp, nguyên luật sư các Tòa Thượng Thẩm Sài Gòn và Paris và hiện là Chủ tịch Trung Tâm Việt Nam về Nhân Quyền ở Paris... Việc nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, từ hạ tuần tháng 5 dương lịch, bất chợt leo thang áp dụng một loạt biện pháp cứng rắn đối với một số chức sắc và tín đồ mấy tôn giáo ở trong nước, đang gây ra một luồng dư luận quốc tế lên án Hà Nội đẩy mạnh chính sách đàn áp tôn giáo. Thông qua các tiếng nói chính thức của mình, như tờ báo đảng, nhật báo Nhân Dân, hay người phát ngôn bộ ngoại giao, chính quyền Hà Nội bác bỏ mạnh mẽ lời chỉ trích này. Để có thể nhận định một cách khách quan và chính xác, rằng có hay không có đàn áp tôn giáo ở Việt Nam, thiết tưởng trước hết phải định nghĩa tự do tôn giáo là gì, rồi từ đó coi xem chính quyền đương chức có thật sự tôn trọng quyền tự do này hay không. Về mặt quốc tế, cơ sở để định nghĩa tự do tôn giáo là các điều 18 của bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và bản Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị. Theo hai điều này và nói rất tóm lược, thì tự do tôn giáo là một bộ phận của tự do tư tưởng, tự do lương tâm, tự do tín ngưỡng. Ngoài ra, muốn thực thi tự do tôn giáo, còn phải có tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do giáo dục v.v...Do đó, dưới ánh sáng của luật quốc tế về nhân quyền, tự do tôn giáo là quyền của con người được tin thờ một tôn giáo tức là được quyền có một tôn giáo. Quyền này chẳng những là lòng thâm tín của riêng mình mà còn được cùng chia xẻ với tất cả những ai cũng thâm tín như mình, bằng cách cùng tổ chức việc thờ cúng theo nghi lễ thích hợp, việc giảng dạy giáo lý cho bản thân và cho cả con cháu. Bởi vậy, tự do tôn giáo vừa là một quyền cá thể vừa là một quyền tập thể. Luật quốc tế đã định rằng không ai - dù là cá nhân hay Nhà nước - được quyền làm áp lực để ép buộc người khác phải theo hoặc không được theo một tôn giáo nào, một thâm tín nào. Luật quốc tế có nói tới trường hợp nếu phải giới hạn quyền tự do tôn giáo thì phải có luật rõ ràng và luật này phải xuất phát từ nhu cầu đích thực bảo vệ an ninh, y tế, trật tự, luân lý công cộng và những quyền cơ bản của người khác. Cần nhấn mạnh rằng những hạn chế kể trên, nếu có, không thể chỉ là những trường hợp riêng lẻ, cá biệt mà phải là sự đòi hỏi có tính nguyên tắc tổng quát. Không giống ở một số nước toàn giáo, nghĩa là những nước có một quốc giáo, sinh hoạt thường ngày hiện nay trên thế giới cho thấy chính quyền các nước dân chủ tiên tiến rất coi trọng nhân quyền, phân biệt rõ ràng tự do tín ngưỡng với tự do tôn giáo, coi tự do tôn giáo là quyền tự do thực tế và cụ thể của tự do tín ngưỡng. Rất tiếc là ở Việt Nam, tuy điều 70 bản Hiến Pháp 1992 công nhận cho (trích dẫn) "công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào" nhưng tình trạng tự do tôn giáo ở Việt Nam không được sáng sủa như ở các nước dân chủ tự do vì nó có quá nhiều mập mờ. Thật vậy, Việt Nam hiện nay là một nước toàn giáo đảo ngược. Chính sách tôn giáo của đảng cộng sản cầm quyền là dùng quyền "tự do không theo một tôn giáo" để khống chế quyền "tự do theo một tôn giáo". Điều 70 thượng dẫn của Hiến Pháp 1992 chỉ để làm cảnh vì trong thực tế văn bản chi phối quyền tự do tôn giáo không phải là Hiến Pháp mà là những vân bản dưới hiến pháp, dưới luật mà mới nhất là Nghị Định số 26/1999/CP ngày 19/4/1999. Phải nói rằng Nghị định này có 29 điều thì cả 29 điều ấy, tuy có những cách nói khác nhau, nhưng tựu trung đều dùng để cản trở quyền tự do của những người không muốn theo đảng chỉ muốn theo một tôn giáo mà họ tin tưởng. Chẳng những họ bị cản trở không được theo các hình thức tôn giáo mình lựa chọn mà họ còn bị ép buộc phải theo hoàn toàn những hình thức gọi lắ tôn giáo do nhà cầm quyền quy định. Nếu không chịu như vậy thì bị coi là bất hợp pháp và bị trừng trị như một thường phạm. Đương nhiên một chính sách chà đạp lên nhân quyền, đi ngược lại từ tinh thần đến văn tự của luật quốc tế như vậy, phải dẫn tới những cuộc đấu tranh gốc tôn giáo với những hệ quả chính trị trên ngọn. Yêu sách cơ bản của phe đấu tranh là tự do tôn giáo phải được công nhận như một quyền tự do riêng biệt và cụ thể, bên cạnh quyền tựỉ do tín ngưỡng. Cuộc đấu tranh này đã ngấm ngầm phát khởi từ mấy thập niên qua vànay đã trở thành một cuộc đối đầu trực diện. Phía chính quyền dựa vào pháp luật do chính mình đặt ra, chính mình áp dụng, chính mình kiểm sát, ra mặt đàn áp. Phía các tôn giáo, trước đe dọa bị chính quyền tiêu diệt, cũng ra mặt đòi truất phế chính quyền toàn trị để được thực sựỉ tự do hành đạo. Một bên có sức mạnh của công an, quân đội, pháp luật, nhà tù để đàn áp. Một bên dựa vào chính nghĩa của văn hóa nhân quyền, có hậu thuẫn trong dư luận cộng đồng nhân loại văn minh để tự vệ trong khi chờ đợi chiến thắng. Xem chừng giữa lập trường hai bên không có khả thế dung hòa vì tự do nhân quyền không thể sống chung với độc tài toàn trị. Như chính cuộc tranh chấp từ khởi thủy đến nay đã minh chứng một cách hùng hồn. Trong lô gích này thì điều kiện, không có không được để thiết lập nhân quyền chân chính ở Việt Nam theo xu thế của thời đại, là phải thay đổi toàn bộ hệ thống pháp luật -bao gồm cả lập pháp, hành pháp, tư pháp - đang được sử dụng tại nước này để duy trì độc tài toàn trị, môt quyền lực mà đặc tính là phi nhân quyền. Và để có thể bắt đầu sự thay đổi đại quy mô nhưng không thể thiếu này, các tôn giáo bị đàn áp đã ôn hòa nhiều làn đưa ra yêu sách đòi bãi bỏ điều 4 của Hiến Pháp 1992.