So sánh tỷ giảo giữa phát triển Việt Nam và Trung Quốc (II)


2005.07.06

Mai Thanh Truyết

Trong tạp chí KHMT kỳ trước, Tiến sĩ Mai Thanh Truyết của hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam đã phân tích về chính sách phát triển của Trung Quốc và đưa ra một số dữ kiện chứng minh tại sao phát triển của Trung Quốc nhanh hơn Việt Nam.

InvestLabor200.jpg
Việt Nam là một nơi thu hút đầu tư hấp dẫn cho doanh nghiệp nhờ nhân công rẻ hơn cả. AFP PHOTO

Tạp chí kỳ này sẽ phân tích thêm về các bước phát triển của Việt Nam và đề nghị một số biện pháp trong việc phát triển và bảo vệ môi trường ở Việt Nam.

Hỏi: Kính chào tiến sĩ Mai Thanh Truyết, trước hết, xin ông tiếp tục về chính sách phát triển của Việt Nam từ năm 1986 so với Trung Quốc?

Đáp: Chính sách mở cửa và tiếp cận bên ngoài ở Việt Nam sau Trung Quốc 6 năm, nhưng tiến độ phát triển ở Việt Nam vẫn còn quá chậm so với quốc gia nầy dù Trung Quốc phải cưu mang một số lượng nhân khẩu cao gấp 15 lần hơn.

Nếu lấy mức lợi tức đầu người và mức tăng trưởng của năm 2004 làm chuẩn, thì trong năm 2003, mỗi người dân Việt Nam được "giàu thêm" $32, trong lúc đó Trung Quốc được hưởng thêm $82. Từ các con số trên chúng ta có thể hình dung được mức cách biệt ngày càng cách xa, nếu Việt Nam không có một chính sách đẩy mạnh phát triển kinh tế đúng đắn.

Việt Nam vẫn còn 22 triệu người (theo thống kê của 2004 Việt Nam), chiếm 26,8% tổng số dân, vẫn còn sống dưới mức nghèo đói tuyệt đối, mà tuyệt đại đa số là nông dân (chiếm 63% dân số toàn quốc).

Thực sự con số trên có thể còn cao hơn nữa, nếu chúng ta chịu làm một cuộc khảo sát sâu rộng ở vùng ĐBSCL, nhiều nơi, người dân chưa hề nhìn thấy được tờ giấy bạc 50.000 đồng, chứ đừng nói đến giấy bạc 100.000 hay 500.000!

Hỏi: Qua các phân tích ở phần trên, việc truy tìm một hướng phát triển đúng đắn cho Việt Nam trong tương lai thiết nghĩ không phải là một việc khó khăn lắm, Tiến sĩ thấy như thế nào?

Đáp: Từ những con số thống kê, chúng ta đã thấy những sự phân bổ lao động trong các lãnh vực phát triển không cân đối. Từ đó, bài toán đầu tiên cho phát triển là cần phải giảm tỷ lệ nông dân và tăng tỷ lệ lao động cho kỹ nghệ và dịch vụ.

Tuy chưa có số thống kê riêng rẽ cho kỹ nghê và dịch vụ, nhưng quan sát các sinh hoạt thương mãi ở các thành phố lớn, chúng ta có thể hình dung được lao động trong các dịch vụ đơn giản vẫn chiếm đa số. Và dịch vụ nầy không thể so sánh được với khu vực dịch vụ mà Colin Clarke đã định nghĩa là dịch vụ công nghiệp cao cấp.

Việc chuyển dịch số lao động trong nông nghiệp sang kỹ nghệ sản xuất sẽ làm tăng mãi lực tạo ra của cải vật chất, từ đó lợi tức đầu người sẽ tăng theo, và theo phản ứng dây chuyền, kinh tế sẽ chuyển dịch nhanh hơn.

Hỏi: Trong chuyển dịch lao động, lợi thế của Việt Nam như thế nào so với Trung Quốc với dân số 1,3 tỷ người?

Đáp: Việt Nam có nhiều thuận lợi hơn Trung Quốc để làm công cuộc chuyển dịch nầy. Đó là kỹ nghệ dầu hỏa. Tuy nhiên Việt Nam đã để mất thuận lợi nầy vì hiện tại cán cân xuất nhập dầu thô để đổi lấy xăng, dầu và hóa chất vẫn còn âm tính.

Chính quyền Việt Nam hiện tại còn phải tiêu tốn một khối lượng lớn ngoại tệ nặng cho dịch vụ nầy, chưa kể đến mức "bảo trợ" giá bán xăng dầu trong nước để tránh việc tăng giá các mặt hàng tiêu dùng và điều sau nầy có nguy cơ tạo ra khủng hoãng xã hội. Việc làm sau nầy đã khiến cho ngân sách nhà nước càng thêm thâm thủng.

Về đầu tư ngoại quốc, vì là một thị trường mới do đó Việt Nam có nhiều thuận lợi cho ngoại quốc đầu tư hơn Trung Quốc, nhưng Việt Nam cũng đã đánh mất thuận lợi nầy vì các đầu tư ngoại quốc vào Việt Nam trong vòng 10 năm trở lại, chúng ta chỉ thấy hầu hết các đầu tư nầy đều có tính cách dịch vụ và phục vụ, không đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế và xã hội Việt Nam hiện tại.

Xin đan cử một vài thí dụ, với lợi tức đầu người trung bình là $450/năm, làm thế nào một người dân Việt có thể mua được một chiếc xe hơi trị giá 4, 5 chục ngàn Mỹ kim? Trong lúc đó, hiện có trên 10 hảng xe ngoại quốc đầu tư để "lắp ráp" xe hơi tại Việt Nam.

Thị trường Việt Nam chỉ có khả năng hấp thụ hàng năm khoảng 8000 xe mà thôi. Do đó, kỹ nghệ ráp xe nầy không đáp ứng được nhu cầu sử dụng lao động ở Việt Nam tương xứng với vốn đầu tư cho kỹ nghệ trên.

Một câu hỏi được đặt ra nơi đây là, có công ty ngoại quốc nào chú ý đến mở một nhà máy sản xuất bánh xe, tận dụng nguồn nguyên liệu cao su sẳn có của Việt Nam, thay vì phải xuất cảng cao su thô và nhập cảng bánh xe từ bên ngoài?

Hỏi: Còn về đầu tư cho kỹ nghệ hóa chất, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật là những sản phẩm cần thiết cho phát triển nông nghiệp của Việt Nam thì sao?

Đáp: Bước qua kỹ nghệ hóa chất và phân bón cùng các loại thuốc bảo vệ thực vật, có nhiều công ty 100% vốn ngoại quốc, và công ty hợp doanh với doanh thương người Việt, nhưng thật sự đây không phải là những nhà máy sản xuất đúng nghĩa mà chỉ nhập cảng nguyên liệu chính từ ngoại quốc, rồi pha trộn theo tỷ lệ, cho thêm vào các chất phụ gia (chất đệm) rồi tung "thành phẩm" ra thị trường nội địa.

Nếu thực hiện công đoạn sản xuất các kỹ nghệ trên với nguyên liệu đến từ các phụ phẩm từ một nhà máy lọc dầu ở nội địa,Việt Nam có thể thu hút hàng triệu công nhân lao động và có thể dự trử thêm nhiều ngoại tệ nặng dùng cho việc nhập cảng các nguyên liệu hóa chất để chế biến trên.

Hỏi: Nói rốt ráo lại, Tiến sĩ vẫn cổ súy cho việc chuyển dịch lao động đơn giản và nông nghiệp thành lao động cao cấp trong công nghiệp và dịch vụ?

Đáp: Chuyển dịch lao động nông thôn thành công nhân kỹ nghệ còn là một việc làm thích hợp với chiều hướng toàn cầu hóa và cải thiện được đời sống kinh tế của nông dân. Thêm nữa, việc làm nầy sẽ hạn chế được tình trạng ô nhiễm mội trường trong không khí và trong nguồn nước, cũng như hạn chế được việc tận dụng nguồn nước ngầm, đặc biệt ở vùng ĐBSCL.

Việc đẩy mạnh nông nghiệp và chăn nuôi ở vùng nầy trong 10 năm vừa qua đã làm nguồn nước ngầm ở nhiều nơi đã bị cạn kiệt, như ở Trà Vinh, Sóc Trăng, nhiêù nơi mực nước ngầm xuống thấp từ 2 đến 2,5m do việc đào trên 50.000 giếng ở hai tỉnh nầy. Việc làm nầy đã làm tăng nguy cơ sụp lỡ đất cũng như việc nước biển lấn sâu vào nội địa trong mùa khô.

Từ một vài thí dụ điển hình trên đây, về nông nghiệp và chăn nuôi, chúng ta đã thấy phát triển Việt Nam đang ở trong một tình trạng thiếu tổ chức, không đặt ưu tiên nào trước sau được vì không có chính sách phát triển dài hạn cho đất nước.

Từ khi mở cửa, Việt Nam chỉ đặt trọng tâm vào việc làm thế nào để thu hút ngoại tệ nặng để cứu vản kinh tế đang trên đà kiệt quệ. Do đó, Việt Nam tận dụng bất cứ ưu tiên nào có khả năng đem ngoại tệ vào trước mắt. Để rồi từ đó, qua một thời gian, có những phản ứng phản hồi gây một số bất lợi về kinh tế và có nguy cơ tạo ra khủng hoãng xã hội qua kinh nghiệm tận dụng việc nuôi cá basa và tôm xuất khẩu.

Hỏi: Việt Nam đã tận dụng nông nghiệp để có ngoại tệ nặng qua việc xuất cảng trên 10 năm nay như lúa gạo, cao su, cà phê, tiêu, trà, hột điều, tôm, cá. v.v...Đây là một bước thành công của Việt Nam, tại sao Tiến sĩ lại cho đó là một phương cách không thích hợp?

Đáp: Đúng như vậy thưa anh. Dù Việt Nam đã thành công nhưng đây chỉ là một thành công trong bước đầu Và nếu đi xa hơn nữa, Việt Nam phải nhìn thấy những ưu tiên khác trong tiến trình phát triển dựa theo thuyết tam khu; do đó, một số ưu tiên khác để phát triển qua các ngành "cao cấp" hơn đều bị "bỏ quên".

Bước qua ưu tiên hai của thuyết tam khu là tiến trình sản xuất do kỹ nghệ, Việt Nam đã thể hiện qúa nhiều cố gắng để kêu gọi đầu tư ngoại quốc, đối lại đối tác trong nước chỉ là các công ty quốc doanh, không có nguồn vốn, chỉ đem mặt bằng (đất của quốc gia) ra thế chấp thay nguồn vốn ban đầu. Từ đó, sự khai thác, sản xuất phần lớn đều lệ thuộc vào tư bản ngoại quốc. Và hậu quả tất nhiên là ngoại quốc khống chế thị trường tiêu thụ hoàn toàn sau khi sản xuất. Đây là một điểm bất lợi lớn trong phát triển.

Nếu tình trạng phát triển ở giai đoạn nầy tiếp tục, thì về lâu về dài chúng ta sẽ thấy rõ những gì sẽ xảy ra: nguồn tài nguyên của đất nước sẽ bị cạn kiệt vì bị khai thác quá độ mà Đất và Nước không hưởng được do các thành quả của việc khai thác trên.

Hỏi: Như vậy giải pháp trước mắt là Việt Nam phải làm gì thưa Tiến sĩ?

Đáp: Qua các phân tích trên đây, một giải pháp giản dị trước mắt để tháo gở các khó khăn kinh tế và chuyển dịch lao động trong nông nghiệp được đề nghị là công nghệ hóa dầu trong điều kiện hiện có của Việt Nam.

Đây sẽ là một giải pháp tối ưu hiện tại để từ đó Việt Nam có thể bước những bước vững chắc hướng về tương lai. Đó là việc xây dựng nhà máy lọc dầu và chế biến các sản phẩm hóa chất qua những phụ chất từ công cuộc hóa dầu nầy. Để rồi từ đó, Việt Nam có thể tự túc qua kỹ nghệ phân bón, thuốc trừ sâu rầy, trừ nấm mốc và một số hóa chất căn bản trong kỹ nghệ.

Nhìn lại kinh nghiệm và bài học về phát triển kinh tế của Trung Quốc, chúng ta nhận thấy, phát triển Việt Nam đúng hướng không phải là một việc không thể thực hiện được.

Việt Nam cần có tầm nhìn toàn cầu, ứng hợp với chiều hướng phát triển chung của thế giới, chấp nhận luật chơi chung, và quan trọng hơn cả là cần phải xóa bỏ não trạng "độc tôn và duy ngã" trong tư thế lãnh đạo đất nước.

Và phát triển cần phải có một kế hoạch dài hạn có tầm vóc quốc gia, chứ không phải cung cách "làm ăn" theo địa phương hoặc từng khu vực giống như hình thức trăm hoa đua nở như hiện nay.

Có được như vậy, Việt Nam mới mong có cơ may cất bước đi tới được.

Kính chào Quý thính giả của Đài ACTD

Nhận xét

Bạn có thể đưa ý kiến của mình vào khung phía dưới. Ý kiến của Bạn sẽ được xem xét trước khi đưa lên trang web, phù hợp với Nguyên tắc sử dụng của RFA. Ý kiến của Bạn sẽ không xuất hiện ngay lập tức. RFA không chịu trách nhiệm về nội dung các ý kiến. Hãy vui lòng tôn trọng các quan điểm khác biệt cũng như căn cứ vào các dữ kiện của vấn đề.