Tình trạng môi trường Việt Nam sau 30 năm


2005.04.28

Mai Thanh Truyết

Năm 1975, từ khi nước nhà hoàn toàn thống nhất, Việt Nam đã bắt đầu đặt kế hoạch phát triển trên toàn thể quốc gia. Từ kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, đến 5 năm lần thứ hai. Nhưng trong hai kế hoạch ngũ niên đầu tiên này, mọi cố gắng của Việt Nam đã đưa đất nước lâm vào tình trạng thực sự kiệt quệ và bế tắc.

Sinh hoạt kinh tế hầu như thất bại hoàn toàn. Việt Nam gần như đứng bên lề vực thẳm. Năm 1986, đứng trước hiểm họa diệt vong, Việt Nam bắt buộc phải mở cửa để chào gọi đầu tư ngoại quốc hầu cứu nguy nền kinh tế đang kiệt quệ.

Từ đó, kinh tế Việt Nam lần lần đi lên từng bước một. Nông ngư nghiệp phát triển và nông dân bắt đầu tương đối có đủ lương thực để sống. Nhưng vấn đề môi trường thuờng phát sinh cùng với phát triển kinh tế và công nghiệp; Việt Nam đã giải quyết ra sao?

Mời quý thính giả nghe cuộc trao đổi giữa Đỗ Hiếu với tiến sĩ Mai Thanh Truyết thụôc hội khoa học kỹ thuật Việt Nam ở California.

Hỏi: Trước hết xin tiến sĩ cho thính giả có cái nhìn chung về tình trạng phát triển và hệ lụy của việc này ở Việt Nam?

Đáp: Thưa anh. Bên cạnh việc phát triển và tăng trưởng kinh tế kể của Việt Nam sau 30 năm, Việt Nam lại phải đối mặt với một vấn nạn môi trường do phát triển ngày càng trầm trọng thêm ra. Va vấn nạn này là một thách thức lớn nhất của Việt Nam trong những ngày sắp đến. Đó là sự phá rừng và sự gia tăng dân số cùng những hệ lụy nảy sinh do hai yếu tố trên.

Trước chiến tranh thứ hai, diện tích rừng nguyên sinh của Việt Nam là 19 triệu mẫu chiếm 58% diện tích cả nước. Cho đến năm 1943 rừng chỉ còn lại 14,1 triệu mẫu (43%); và đến năm 1990 tình trạng càng tệ hại hơn nữa, diện tích rừng chỉ còn 9,1 triệu mẫu (27,7%). Theo báo cáo năm 2002 của Ngân hàng Thế giới (WB), kễ từ năm 1999 trở đi, hàng năm mức độ đốn rừng để xẻ gỗ được ước tính là 2 triệu m3. Ngoài ra còn phải kể đến việc cháy rừng vào mùa khô và việc chuyển đổi rừng trong việc nuôi tôm như vùng rừng tràm, đước ở Cà Mau.

Hỏi: Việt Nam cũng có kế họach trồng rừng. Kế họach này giúp ích ra sao?

Đáp: Việt Nam cũng có chương trình trồng rừng sau khi nhận thức được nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường trong việc phá rừng bừa bãi. Do đó, "chương trình trồng rừng 327" đã được phát động từ năm 1994 đến nay.

Chỉ tiêu cho đến năm 2010 là cố gắng trở lại mức bình thường vào thời điểm 1943, nghĩa là từ bây giờ cho đến cuối kế hoạch phải trồng thên 5 triệu mẫu rừng, chưa kể đến số diện tích rừng bị hủy diệt hàng ngày.

Chi phí trồng rừng được ước tính là 1,1 triệu Mỹ kim/mẫu. Và Việt Nam nếu muốn đạt chỉ tiêu này thì hàng năm phải trồng thêm 1.000.000 mẫu rừng. Do đó tính khả thi của chương trình trồng rừng 327 khó có khả năng thực hiện được.

Hỏi: Hậu quả trước mắt của việc phá rừng như thế nào thưa tiến sĩ?

Đáp: Trước mắt, lấy ĐBSCL làm thí dụ, trong hiện tại chỉ còn 5% rừng che phủ và đã mất đi khoảng 175.000 mẫu rừng ngập mặn tính đến 2003.

Rừng ngập mặn ở nơi này thể hiện nhiều lợi điểm sau đây: 1- chống lại sự xói mòn của biển, 2- hạn chế được sự nhiễm mặn vào sâu trong vùng đất liền, 3- và nhất là bảo vệ được đa dạng sinh học cho toàn vùng. Kỹ nghệ nuôi tôm đã đánh mất đi các lợi điểm này và hiện đang để lại một di hại không nhỏ cho toàn vùng hiện tại.

Đối với đất, hậu quả trước mắt ảnh hưởng từ việc phá rừng là sự thoái hóa của đất. Đất mất đi độ phì nhiêu và sự cân bằng dinh dưởng. Lớp đất thịt trên mặt sẽ bị cuốn trôi sau những cơn mưa lũ vì không còn cây và rễ để giữ đất lại.

Ngoài sự thoái hóa của đất do nguyên nhân trên, sau gần 20 năm mở cửa và phát triển ồ ạt trong nông nghiệp, Việt Nam mất đi 2 tỷ tấn đất/năm (nguyên nhân chính yếu là do việc phá rừng) hay tính trung bình đất bị xói mòn tùy theo vùng và đã thất thoát từ 50 - 3200 tấn/mẫu/năm ảnh hưởng đến 23 triệu mẫu trên toàn quốc, chiếm 70% diện tích quốc gia.

Hỏi: Việc phá rừng còn có thể ảnh hưởng lên nguồn nước nữa, ở Việt Nam thì ảnh hưởng này ra sao, thưa ông?

Đáp: Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo Quốc gia về Cung cấp Nước sạch và Vệ sinh môi trường năm 2003, nguồn nước ở Việt Nam ngày càng bị khan hiếm và ô nhiễm. Sự thoái hóa này tăng theo tỷ lệ thuận với mức tăng trưởng kinh tế, nhất là ở những năm gần đây. Nhu cầu nước cho nông nghiệp chiếm 88%, và cho kỹ nghệ chiếm 7%.

Các nguồn nước thải từ khu gia cư, từ các trung tâm kỹ nghệ, khu chế xuất, đất nông nghiệp v.v...đã xâm nhập vào nguồn nước mặt, nước ngầm, thậm chí ảnh hưởng đến phẩm chất nước ở vùng duyên hải nữa. Nước sinh hoạt gia cư, nước thải kỹ nghệ, và nước rỉ từ các bãi rác là nguyên nhân chính yếu cho việc ô nhiễm hữu cơ trong nguồn nước mặt đặc biệt ở các thành phố lớn như TpHCM, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ v.v... căn cứ theo báo cáo trên.

Hỏi: Nguyên nhân thứ hai tiến sĩ nêu lên là sự gia tăng dân số, vậy mức tăng đó ảnh hưởng đến việc phá rừng như thế nào?

Đáp: Với diện tích 325.000 Km2 trong đất liền và 336.000 Km2 nếu tính luôn các hải đảo, Việt Nam phải đối mặt với sự gia tăng dân số trầm trọng từ 44 triệu vào năm 1975 lên đến trên 82 triệu năm 2004.

Mật độ trên 1 Km2 tăng từ 135 người đến 252 người. Toàn thể Việt Nam hiện tại có khoảng 12 triệu mẫu đất canh tác cho trồng trọt và chăn nuôi. Chính sự gia tăng dân số quá nhanh ngay sau khi chiến tranh vừa chấm dứt là một trong những nguyên nhân chính cho việc phá rừng.

Cùng với mức gia tăng trên, và do nhu cầu sinh tồn, con người đã làm cho môi trường ngày càng xuống cấp nhanh hơn qua việc đốt rừng làm rẫy, độc canh trên đất dốc, đồi núi mà không có biện pháp chống xói mòn.

Về trồng trọt, vì không được hướng dẫn cho nên việc luân canh không có kỹ thuật, không hợp lý cũng như không có kế hoạch, nhất là các loại cây công nghệ như: mía, khoai mì, khóm, lúa, đậu v.v...

Thêm nữa, cũng vì mức gia tăng dân số cho nên đất đã bị sử dụng liên tục, không có thời gian nghỉ ngơi để lấy lại sự cân bằng thiên nhiên. Cũng như vì nhu cầu tưới tiêu, cho nên nông dân không ngần ngại xử dụng nguồn nước thiếu phẩm chất như nước phèn, nước lợ....và hậu quả tất nhiên của việc làm này là mức độ nhiễm mặn, nhiễm phèn lấn sâu vào lục địa và đất đang có nguy cơ trở thành sa mạc hóa trong tương lai, và không thể phục hoạt được.

Việc di dân từ các vùng cao miền Bắc vào cao nguyên Trung phần không có kế hoạch rõ rệt cũng như không có nguồn trợ lực về tài chính và kỹ thuật cho di dân lúc ban đầu càng làm cho nông dân gián tiếp tăng thêm mức độ suy thoái của đất trong chăn nuôi và trồng trọt cũng như mức độ ô nhiễm qua việc xử dụng hóa chất và thuốc bảo vệ thực vật bừa bãi làm cho tiến trình hủy hoại môi trường càng nhanh hơn.

Hỏi: Trước hai vấn nạn vừa trình bày, Việt Nam hiện có biện pháp nào để giải quyết hay không thưa tiến sĩ?

Đáp: Thưa có và không. Có là trong "Chiến lược Bảo vệ Môi trường Quốc gia 2001 - 2010" do Bộ Khoa học, Công nghệ & Môi trường thực hiện đã được nghiên cứu trong nhiều năm, được sự tham gia đóng góp ý kiến của nhiều nhà quản lý, nghiên cứu của hầu hết Bộ/Ngành ở trung ương và nhiều Ban/Ngành ở các địa phương.

Nhiều nhà tài trợ và chuyên gia nước ngoài cũng đã tham gia tư vấn và hoàn thành chiến lược này... Và Chiến lược đã rút ra 9 giải pháp để thực hiện việc bảo vệ môi trường Việt Nam trong tương lai như sau:

1- Tăng cường giáo dục và nâng cao nhận thức về môi trường; 2- Tăng cường vai trò của cộng đồng, doanh nghiệp, tư nhân trong bảo vệ môi trường; 3- Tăng cường và đa dạng hóa đầu tư bảo vệ môi trường; 4- Tăng cường năng lực quản lý nhà nước về môi trường; 5- Mở rộng hợp tác quốc tế và thu hút sự tài trợ của quốc tế; 6- Kết hợp chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia với chiến lược phát triển kinh tế xã hội; 7- Lựa chọn hành động ưu tiên; 8- Giám sát và đánh giá việc thực hiện chiến lược; 9- Trách nhiệm và các cơ quan thực hiện;

Và không là, tính đến nay, kế hoạch thực hiện chiến lược môi trường đang đi vào giữa giai đoạn (2005), theo sự quan sát của nhiều chuyên gia nội địa và hải ngoại, 9 giải pháp đề ra vẫn chưa được thực hiện đúng mức vì chỉ là những giải pháp tô vẽ trên giấy tờ và không được khai triển ra từng kế hoạch chi tiết để có thể phối hợp hành động.

Hỏi: Tình trạng phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường trong 30 năm vừa qua đã không đồng bộ như tiến sĩ vừa nêu ra, như vậy quan điểm của tiến sĩ như thế nào về vấn nạn này?

Đáp: Nhìn lại 30 năm quản lý môi trường 1975 - 2005 của một quốc gia Việt Nam thống nhất, đất nước đã được gồm thu vào một mối, công cuộc điều hành quốc gia được tóm gọn vào một chiều hướng duy nhất: Phát triển quốc gia theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Dù cố gắng tối đa để có một nhận xét tích cực, nhưng quả thật, Đất Nước Việt Nam đang đi dần đến bế tắc, nhất là 20 năm sau khi có kế hoạch mở cửa từ năm 1986.

Phát triển Việt Nam trong nông nghiệp và chăn nuôi để phục vụ cho nhu cầu xuất cảng để có một số ngoại tệ nặng, nhưng cán cân chi thu vẫn làm cho Việt Nam càng thiếu hụt thêm ra theo thời gian mặc dù có rất nhiều nguồn vốn đầu tư do ngoại quốc đổ vào. Việc xuất cảng hàng năm trung bình 4 triệu tấn gaọ, thu nhập vào khoảng 800 triệu Mỹ kim, liệu có cân bằng được việc nhập cảng 9,5 tấn phân bón trong đó có 3 triệu tấn phân urê, cùng hàng trăm ngàn tấn hóa chất bảo vệ thực vật để có được lượng gạo xuất cảng trên hay không?

Tuy nhiên, còn có một hy vọng là vào tháng 10,2003, trong một cuộc họp báo Thủ tướng Việt Nam Phan Văn Khải có tuyên bố rằng: "Phát triển kinh tế và xã hội theo định hướng công nghiệp hóa:. Có thể đây là một chỉ dấu mơí của chính sách kinh tế của Việt Nam hay không?

Hay là chuổi từ "định hướng xã hội chủ nghĩa" theo sau chiến lược phát triển kinh tế cho đến nay có thể đã được lãnh đạo Việt Nam nhìn nhận là đã thất bại và cần phải chuyển hướng tư duy?

Một chút hy vọng nữa, là Việt Nam sắp sửa cho nhóm họp Hội nghị Môi trường Toàn quốc 2005 tại Hà Nội vào 25 và 26 tháng tư tới đây để hoạch định lại kế hoạch trong đòn bẩy phát triển/bảo vệ môi trường cho những ngày sắp đến.

Cám ơn Tiến Sĩ Mai Thanh Truyết.

Nhận xét

Bạn có thể đưa ý kiến của mình vào khung phía dưới. Ý kiến của Bạn sẽ được xem xét trước khi đưa lên trang web, phù hợp với Nguyên tắc sử dụng của RFA. Ý kiến của Bạn sẽ không xuất hiện ngay lập tức. RFA không chịu trách nhiệm về nội dung các ý kiến. Hãy vui lòng tôn trọng các quan điểm khác biệt cũng như căn cứ vào các dữ kiện của vấn đề.