Toàn cầu hóa môi sinh

Bấm vào đây để nghe tiết mục này

Rightclick to download this audio

Kể từ khi đúc kết bản Thông Cáo Chung cho hội nghị Thượng Đỉnh về môi sinh tại Rio de Janeiro năm 1992, đại diện của 170 quốc gia trên toàn thế giới đã nhóm họp một lần nữa ở New York vào tháng 6/1997 để lượng định kết quả sau khi ký kết nhiều điều luật áp dụng cho toàn cầu. Tiếp theo, hàng năm các quốc gia trên thế giới cũng đều tổ chức thêm nhiều hội nghị thảo luận về các chuyên đề còn vướng mắc.

Các ký kết sau đây đã được khơi mào từ năm 1992 và đang được tiếp tục bàn thảo cũng như chi tiết hóa:

- Ký kết về Đa dạng sinh học đã nêu lên tích chất bảo vệ môi trường, giám sát/chia sẻ hổ tương các vấn đề môi sinh giữa các quốc gia.-Luật về Biển để điều hòa các mặt kinh tế trên mặt biển cũng như định ranh hải phận và bảo vệ nguồn cá biển của từng quốc gia một.-Luật Đánh cá ngoài biển khơi năm 1995 áp dụng cho toàn thế giới.-Ký kết giữa Âu châu và Hoa kỳ về việc hạn chế lượng khí thải hồi vào bầu khí quyển để bảo vệ lớp ozone (1996).-Luật cấm chuyễn vận các chất phế thải kỹ nghệ kễ cả phế thải nguyên tử qua các nước kém mở mang.

Qua các ký kết kễ trên, TS đã nhận định về thành quả của việc áp dụng các điều khoảng của Hội nghị như thế nào? Cũng như những mặt tiêu cực và tích cực của các luật trên?

Tiến sĩ Mai Thanh Truyết: Sau hơn 20 năm áp dụng, các quốc gia đã ròng rã hoạt động phối hợp từ sau hội nghị Thượng đỉnh, các kết quả ghi nhận thể hiện nhiều mặt tích cực lẫn tiêu cực.

-Nhìn chung về các mặt tiêu cực thì sự gia tăng mức độ ô nhiễm không khí và sự giãm thiểu nguồn nước sinh hoạt là mối lo ngại hàng đầu cho thế giới mặc dù có quá nhiều luật lệ ràng buộc các quốc gia với nhau về hai vấn đề trên. Và kết quả dây chuyền là lượng ngủ cốc sản xuất cũng như lượng protein động vật sẽ không tăng trưởng kịp với đà gia tăng dân số trên thế giới. Nguy cơ nạn đói có thể xảy ra trầm trọng hơn trong tương lai ở những nước có đông dân cư và kém mở mang.

-Về mặt tích cực, cần phải kễ đến trước tiên là mức gia tăng dân số giãm dần dù còn có nhiều nơi không hạn chế được mức sinh sản như ý muốn. Với sự tiếp tay của các quốc gia giàu, cộng thêm trình độ dân trí ở các quốc gia đang phát triển tăng dần, mức gia tăng dân số đã giãm so với năm 1992, mặc dù dân chúng có tuổi thọ tăng lên và sống mạnh khỏe hơn. Về môi sinh có nhiều chỉ dấu cho thấy cố gắng trong việc giải quyết và xử lý môi trường ở nhiều quốc gia nhất là ở những quốc gia đang phát triển để từng bước hội nhập vào cộng đồng quốc tế.

Nguyễn An: Qua sự trình bày của TS, chúng tôi thấy hiện tại vẫn còn quá nhiều vấn đề tồn tại ảnh hưởng trực tiếp lên hành tinh của chúng ta đang sống: 1) Sự bất cân đối về mức độ giàu/nghèo giữa các quốc gia,2) Sức mạnh và quyền lực chính trị/kinh tế. Đó là hai yếu tố căn bản ảnh hưởng đến môi trường sống và là nguồn cội bất ổn cho tương lai của các quốc gia. Đây cũng là những khuyến cáo do Worldwatch Institute đúc kết qua cuốn bạch thư Chỉ dấu sinh tồn 2000 ( Vital signs 2000) điển hình như nạn nghèo đói, vấn đề cung cầu, dân số, đất đai, lương thực, nước sinh hoạt v.v... TS có thể cho biết khái lược về những vấn đề trên?

Tiến sĩ Mai Thanh Truyết: Mặc dù có sự kêu gọi của thế giới qua hội nghị Copenhagen (Đan Mạch) từ năm 1995 với chủ đề "quốc gia giàu phải viện trợ và xóa nghèo cho quốc gia nghèo" nhưng khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia trên càng tăng. Bắc bán cầu và Nam bán cầu có hai đời sống kinh tế trái ngược. Trong năm 1999, kinh tế toàn thế giới khơi động trên 41 ức Mỹ kim (1 ức= 1012 ) cho sinh hoạt và dịch vụ...nhưng 45% số lượng trên đã đi vào 12% dân số của các quốc gia hậu kỹ nghệ. Hiện tại vẫn còn trên 2 tỷ người sống trong tình trạng nghèo tuyệt đối ( lợi tức dưới US$1/ngày). Và tình trạng nghèo đói nầy tiếp tục tăng thêm mặc dù có nhiều kết ước của các quốc gia giàu về việc chia sẻ và giảm thiểu phân nửa số lượng người nghèo trên thế giới vào năm 2015.

Cũng trong năm 1999, các nước đang mở mang hiện còn nợ của quốc gia phát triển 2.5 ức Mỹ kim. Tình trạng trên ảnh hưởng rất lớn đến các nước nghèo vì đôi khi mức nợ cần phải thanh toán chiếm hơn 39% ngân sách quốc gia

Nguyễn An: Như vậy, sự phân bố tài nguyên thiên nhiên và nguyên liệu cùng phúc lợi công cộng trên thế giới như thế nào?

Tiến sĩ Mai Thanh Truyết: Vẫn còn 20% dân chúng trên thế giới tiêu thụ 80% nguồn tài nguyên thiên nhiên! Chính thiểu số người dân sống trong các quốc gia giàu nầy làm cho môi trường càng thoái hóa nhanh hơn như nhận định của Molly Sheehan trong bạch thư Chỉ dấu Sinh tồn 2000 trên. Chúng ta hình dung số lượng giấy sử dụng ở các quốc gia phát triển cao hơn chín lần mức tiêu thụ ở các nước nghèo. Số lượng xe sử dụng ở Bắc Mỹ, Tây Âu và Nhật Bổn cao gấp trăm lần ở Ấn Độ và Trung Quốc theo ước tính của Quỷ Dân số LHQ (UN Population Fund).

Mặc dù chính quyền của các quốc gia giàu đã đưa ra nhiều chính sách để cố gắng hạn chế sử dụng bừa bãi tài nguyên thiên nhiên, cải tiến quy trình sản xuất "sạch", tái sử dụng các phế phẩm để giãm thiểu phế thải độc hại...tuy nhiên người dân ở những nước nầy vẫn còn nhiều thói quen xấu trong sinh hoạt hàng ngày như phí phạm nguồn nước sinh hoạt và năng lượng.

Nguyễn An: Còn vấn đề dân số thì sao? Có được cân bằng so với sự phân phối lương thực hay không?

Tiến sĩ Mai Thanh Truyết: Vì nhu cầu cung cấp lương thực cần tăng theo tỷ lệ thuận với đà gia tăng dân số, các quốc gia đang mở mang cố gắng luân canh và thâm canh để gia tăng sản lượng ngủ cốc. Việc làm nầy khiến cho đất đai bị cằn cổi sớm hơn dự liệu trong vài vùng trên thế giới do đó mức độ phá rừng tăng nhanh hơn... Đối với các quốc gia đã phát triển, mức gia tăng dân số tương đối ổn định, và mức tăng trưởng lương thực hoàn toàn phù hợp và có tính khả thi cao so với điều kiện xã hội dự kiến cho một vài thế hệ tiếp theo. Ngược lại, ở các nước đang mở mang, việc tăng trưởng dân số quá nhanh và khó kiểm soát vẫn là vấn nạn chính cho các chính quyền nói trên. Từ tình trạng thiếu phương tiện, nguồn vốn cho đến dân trí người dân còn thấp kém.... quả thật khó cho các nước đang mở mang có thể hoạch định được một chương trình hay kế hoạch hữu hiệu về kiểm soát sinh sản.

Nguyễn An: Để giải quyết vấn để gia tăng dân số cần phải tăng sản lượng ngủ cốc, tuy nhiên nhu cầu nầy liên quan đến diện tích đất đai trồng trọt; do đó việc ảnh hưởng lên môi trường là điều không tránh khỏi, như vậy TS nhìn vấn đề như thế nào?

Tiến sĩ Mai Thanh Truyết: Trong khi các nước hậu kỹ nghệ đang đẩy mạnh việc trồng rừng, tái tạo rừng và hạn chế phá rừng cho kỹ nghệ giấy và xây cất... thì sự thất thoát rừng ở các quốc gia kém mở mang đang trên đà báo động. Vì nhu cầu phát triển và tăng diện tích đất trồng trọt, nạn phá rừng bừa bãi làm cho rừng bị hủy diệt với tốc độ nhanh hơn việc tái tạo rừng..

Trung bình hàng năm trên thế giới có khoảng 13,7 triệu hecta rừng biến mất. Riêng tại Việt Nam, năm 1994 tổng diện tích rừng chiếm 44% theo cơ quan Lương Nông quốc tế, nhưng năm 1980 còn khoảng 24% và tính đến năm 1998 chỉ còn 17% trên tổng diện tích đất đai! Với tốc độ phá rừng kễ trên, thì trong tương lai chúng ta khó có thể lường được hậu quả của những thiên tai sẽ xảy ra cho Việt Nam.

Về lương thực, mặc dù mức sản xuất đang trên đà gia tăng nhưng vẫn còn trên 1 tỷ nhân khẩu trên thế giơi đang chiến đấu với nạn đói và thiếu dinh dưởng. Việc sử dụng thuốc trừ sâu rầy bừa bãi, phương pháp trồng trọt còn quá thô sơ, kỷ năng hiểu biết và ứng dụng phân bón còn yếu kém... Đó là những nguyên nhân chính làm cho hơn 300 triệu hecta đất dùng cho nông nghiệp bị thoái hóa hay không thể khai khẩn được. Thêm nữa, khoảng 1,2 tỷ hecta đất đang báo hiệu hiện tượng lão hóa và cho năng suất rất kém. Sự sa mạc hóa của đất ngày càng ảnh hưởng mạnh lên tổng diện tích đất trồng trọt trên thế giới. Tình trạng nầy chiếm hơn 1/4 đất nông nghiệp tương đương với 3,6 tỷ hecta.

Nguyễn An: Mặc dù còn rất nhiều vấn đề cần phải bàn ở đây, nhưng TS đã phác họa ra một bức tranh không mấy gì sáng sủa trong một số vấn chính yếu kễ trên. Như vậy thì tương lai môi sinh toàn cầu trong đo có Việt Nam không còn hy vọng gì nữa hay sao?

Tiến sĩ Mai Thanh Truyết: Đứng trước xu hướng toàn cầu hóa trong mọi lãnh vực của con người, cũng như lằn ranh quốc gia, chủng tộc, lần lần phai nhạt dần. Và cùng với sự tiếp tay của các nước hậu kỹ nghệ, người dân của các quốc gia đang phát triển ngày càng được tiếp thu và hấp thụ thêm nhiều thành quả của tiến bộ khoa học để cải thiện xã hội từng bước một. Tuy nhiên cũng cần nhận rõ thêm nhiều mặt tích cực và tiêu cực của một số quốc gia Tây phương trong cung cách hành xử trước xu hướng trên để có cái nhìn khái quát về các phương cách tiếp cận môi sinh cho toàn cầu. Xin đan cử ra đây trường hợp cần cho chúng ta suy gẫm. Đó là trường hợp nước Đức.

Đức Quốc, từ khi bức tường Bá Linh sụp đổ người dân và chính phủ Tây Đức trong gần mười năm phải cưu mang hai vấn nạn chính: 1- Một Đông Đức nghèo nàn và hạ tầng cơ sở cùng hệ thống công-kỹ-nghệ không còn phù hợp với cung cách phát triển mới; 2- Dân sinh và dân trí người Đông Đức ở dưới mức trung bình quá xa so với người dân Tây Đức. Thêm nữa, sau gần 50 năm dưới chế độ cộng sản, người dân Đông Đức không còn thấy định hướng mới nào nữa cho xã hội đứng trước sự phát triển cực kỳ tân tiến của đồng hương từ phía bên kia bức màn sắt.

Đứng trước tình trạng đó, thay vì hành xử với cung cách của kẽ chiến thắng về kinh tế và chính trị đối với người chiến bại, chính phủ và người dân Tây Đức đã mở rộng vòng tay cứu vớt đồng bào ruột thịt Đông Đức. Họ đã tân trang, chuyển vận các công nghiệp "sạch" qua Đông Đức cùng với việc hàn gắn vết thương ý thức hệ do một chủ thuyết không tưởng đã tạo ra sự nghèo đói cho phân nửa phần đất nước.

Theo ước tính, Tây Đức dự trù chuyển dịch từ 200 đến 300 tỷ Mỹ kim trong vòng 20 năm tới cho công tác trên. Vì vậy, khoảng cách kinh tế-kỹ thuật giữa hai miền đất nước lần lần được thu hẹp lại. Và hai người anh em ruột thịt Đông Đức và Tây Đức lần lần hội nhập vào sinh hoạt của một tổ quốc chung: quốc gia thống nhất Đức Quốc.

Từ thí dụ điển hình trên, chúng ta có thể hình dung được con đường Việt Nam sẽ phải chọn lựa.