"Chất Da Cam": Tranh tụng về an toàn sản phẩm

0:00 / 0:00

Trong một diễn tiến mới của vụ kiện ở Hoa Kỳ liên quan đến chất da cam, hôm 10/ 9 vừa qua, luật sư Kokkoris, Đại diện của Hội Nạn nhân Chất Da cam/Dioxin Việt Nam đã đệ nạp thêm một phụ bản lên tòa án Brooklyn dưới tựa đề "Agent Orange": Product Liability Litigation, tạm dịch là "Chất Da Cam": Tranh tụng về An toàn Sản phẩm. Chúng tôi trao đổi với Tiến sĩ Mai Thanh Truyết để trình bày thêm về việc này. Trước hết ông Mai Thanh Truyết cho biết thêm chi tiết:

By line: Mai Thanh Truyết - Nguyễn An

Mai Thanh Truyết: Thưa anh, phụ bản gồm 69 trang và 328 điều khoản. Có thể nói phụ bản này là một bổ túc thêm cho hồ sơ vụ kiện và có những điều khoản thêm vào hoặc bớt ra cũng như một số dữ kiện mà hồ sơ nguyên thủy không ghi nhận.

Trước hết, danh sách nạn nhân liệt kê đã tăng lên đến 27 thay vì 6 nạn nhân lúc ban đầu và việc xác nhận 37 công ty hóa chất liên hệ vẫn còn đang hoạt động cùng nơi xuất xứ của các công ty trên.

Nguyễn An: Còn điểm thay đổi nào đặc biệt so với hồ sơ vụ kiện đệ nạp vào ngày 30/1 trước đây thưa Tiến sĩ?

Mai Thanh Truyết: Có nhiều điểm khác biệt cần phải nêu ra đây. Đó là thời gian phun xịt của chiến dịch Ranch Hand, việc liệt kê các tai nạn hóa chất trong lịch sử của các công ty, lý do của vụ kiện, và danh sách nạn nhân được thêm vào. Trước hết, một điểm quan trọng là phụ bản đã kéo dài thời gian phun xịt của chiến dịch Ranch Hand từ 1961 lên đến 1975 thay vì chấm dứt vào năm 1971 như lúc ban đầu.

Nên nhớ trong hồ sơ của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã được giải mã gần đây có nêu lên thời gian của chuyến phun xịt đầu tiên do một chiếc phi cơ C-47 dọc theo quốc lộ 15 về hướng Đông Bắc Sàigon là ngày 12/1/1962 (Scientific Advisory Group- Commander in Chief Pacific 8/ 1968), chứ không phải là ngày 10/8/61 như Việt Nam đã rầm rộ tổ chức và lấy ngày 10/8 làm ngày Da Cam Việt Nam.

Nguyễn An: Về lịch sử các tai nạn hóa chất ở các công ty thì sao, thưa Tiến sĩ?

Mai Thanh Truyết: Hồ sơ cũng ghi thêm về lịch sử của hàng chục tai nạn ở các công ty sản xuất chất da cam từ năm 1948 đến 1965, đa số là ở công ty Dow Chemical, trong đó nạn nhân là nhân công của nhà máy sản xuất. Đa số được ghi nhận là bị chứng chloacne (chứng lát da) và bị bịnh về gan; tuy nhiên không thấy trường hợp bị dị hình dị dạng nào được ghi nhận trong các báo cáo.

Biên bản bổ túc cũng tố cáo các công ty hóa chất Hoa Kỳ đã vi phạm luật quốc tế vì đã phối hợp sản xuất, buôn bán, và cung cấp các hóa chất thật độc hại (highly toxic) cho chính phủ Hoa Kỳ xử dụng như một loại vũ khí hóa học trong chiến tranh Việt Nam từ năm 1961 đến 1975.

Nguyễn An: Còn về lý do vụ kiện thì có khác biệt gì so với hồ sơ kỳ trước?

Mai Thanh Truyết: Về lý do của vụ kiện, Hội NNCDCViệt Nam đã nêu ra 8 "lý do cụ thể" để kết án các công ty trên, chúng tôi chỉ nêu ra 2 trường hợp điển hình là: 1- Các công ty hóa chất đã trình bày sai lạc với Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ là công nhân trong các nhà máy sản xuất chất 2,4,5-T không bị ảnh hưởng đến sức khỏe trong hồ sơ về lịch sử nhà máy. 2- Trong một điểm khác, hồ sơ tố cáo các công ty hóa chất cố ý không đề cập đến sự hiện diện của 2,3,7,8-TCDD tức là Dioxin trong quá trình sản xuất chất 2,3,4-T.

Nguyễn An: Về danh sách nạn nhân thì sao?

Mai Thanh Truyết: Về danh sách nạn nhân, có 27 trường hợp liệt kê so với 6 nạn nhân lúc ban đầu, trong đó có một trường hợp liên hệ đến người lính Việt NamCH, ngược lại với tuyên bố ngay ngày đầu tiên khi ra mắt Hội NNCDCViệt Nam của Bà Nguyễn Thị Bình là những người của chế độ củ của miền Nam không được xem như là nạn nhân.

Đó là anh Nguyễn Đình Thanh, phụ trách việc nấu nướng trong trại quân đóng ở A lưới từ năm 1971 đến 75. Trong thời gian này anh ăn rau cỏ và uống nước suối trong vùng. Do đó, anh Thanh và con là Nguyễn Mười, sinh năm 1983 bị đau lưng không di chuyển được và người con được khám phá là bị chứng cột sống chẻ đôi (spina bifida) do nhiễm chất da cam.

Nguyễn An: Về trường hợp của Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, chúng tôi nghe dư luận nói rằng Bà phủ nhận việc tên Bà có ghi trong vụ kiện, ông có ý kiến gì về vấn đề này?

Mai Thanh Truyết: Thưa anh, cũng trong lần bổ túc này, hồ sơ của Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa và con là Huỳnh Trung Sơn đã được giản lược bớt đi. Lượng dioxin trong máu của Bà phân tích năm 1999 được ghi nhận là cao chứ không nêu rõ chi tiết như hồ sơ ban đầu qua việc phân tích của Bác sĩ Schecter và có kết quả là 20 ppt (phần ức), để rồi từ đó vị Bác sĩ đã ước tính vào năm 1972 nồng độ trong máu của Bà là 300 ppt (!).

Được biết trong câu chuyện trao đổi với bạn bè ở Paris vào trung tuần tháng 5 vừa qua, Bác sĩ DQHoa tuyên bố là Bà không bao giờ đứng ra kiện các công ty hóa chất Hoa Kỳ mà "người ta" đã gán tên Bà vào danh sách vụ kiện và con Bà đã chết trong bưng vì bịnh đau màng óc và vì không có thuốc để chữa trị chứ không phải là do nhiễm độc chất da cam.

Điều sau này Bà chỉ lập lại phát biểu của Bà trong một cuộc phỏng vấn do ký giả Morley Safer vào năm 1989 tại Sàigon, và đã được in thành sách có tựa đề là Flashbacks on Returning to Việt Nam do nhà xuất bản Random House, năm 1990 tại New York. Cũng cần nên biết thêm là vào năm 1972, Bà đã nhờ một Bác sĩ Hoa Kỳ phân tích mẫu máu, và được biết kết quả nồng độ dioxin là dười mức bình thường nghĩa là dưới 2 ppt.

Nguyễn An: Về các bằng chứng khoa học, trong hồ sơ bổ túc kỳ này có điều gì mới lạ không thưa Tiến sĩ?

Bạn nghĩ gì về chất da cam và những nạn nhân của nó? Xin gửi email về Vietnamese@www.rfa.org

Mai Thanh Truyết: Về bằng chứng khoa học, chúng tôi vẫn không thấy một bằng chứng nào cụ thể ngoài việc nêu lên tên một số cơ quan và tác giả nghiên cứu về dioxin như Viện Y khoa thuộc Viện Hàn Lâm Khoa học Hoa Kỳ, công ty cố vấn Hatfield, Canada do Tiến sĩ Wayne Dwernychuck, Tiến sĩ Jeanne Stellman, đại hoc Columbia, và Bác sĩ Schecter của trường Y tế Công cộng Houston.

Nguyễn An: Về những điểm luận tội mà Hội NNCDCViệt Nam đã gán cho các công ty hóa chất Hoa Kỳ, Tiến sĩ thấy có điều gì đặc biệt không?

Mai Thanh Truyết: Trong 8 điều căn bản để kết án phía Bị đơn, chúng tôi xin đan cử một điều quan trọng nhất là bên Nguyên đơn tức Hội NNCDCViệt Nam kết án các Bị đơn là vi phạm nhân quyền có hệ thống (systematic human rights violations), vi phạm luật quốc tế và luật của Hoa Kỳ, Việt Nam, và luật tiểu bang New York. Hồ sơ cũng liệt kê danh sách của 13 luật quốc tế trong đó có tòa án Nuremberg để hổ trợ cho lập luận của Nguyên đơn.

Sau cùng là phần luận tội gồm 13 mục của Nguyên đơn, trong đó có ghi: tội ác chiến tranh, tội diệt chủng, tội ác chống nhân loại, tôi hành hạ, tấn công và đánh đập, tôi bất cẩn, tội làm chết người sai trái, và tội làm giàu bất hợp pháp.

Nguyễn An: Bên Nguyên đơn đã đòi bồi thường thiệt hại như thế nào thưa Tiến sĩ?

Mai Thanh Truyết: Về điểm đòi bồi thường thì vẫn y như hồ sơ ban đầu như: 1- đòi bồi thường do thương tật cá nhân, tử vong, và dị thai; 2- yêu cầu tòa bắt buộc làm giảm việc ô nhiễm môi trường; và 3- các công ty phải hoàn lại các lợi nhuận cộng thêm tiền lời mà các công ty đã kiếm được qua việc sản xuất thuốc khai quang. Sau cùng, các Bị đơn cũng phải gánh chịu các chi phí của vụ kiện như chi phí tòa án, chi phí luật sư và các án phi khác.

Hỏi 10: Qua phụ bản mà Hội NNCDCViệt Nam đã vừa đệ nạp lên tòa và qua phân tích của Tiến sĩ ở phần trên, Tiến sĩ có những nhận định như thế nào về diễn biến vụ kiện.

Mai Thanh Truyết: Từ những thay đổi của phụ bản bổ túc trong hồ sơ vu ïkiện lần này, chúng tôi thấy có những nhận xét như sau:

Hội NNCDCViệt Nam đã cố ý làm tăng thêm mức trầm trọng của vụ kiện bằng cách "cho kéo dài" chiến dịch phun xịt từ năm 1961 cho đến khi chấm dứt chiến tranh năm 1975; và cho tăng thêm hơn 20 nạn nhân "cụ thể". Trong lúc đó tại Việt Nam, Mặt Trận Tổ Quốc đã huy động toàn lực với mục đích tuyên truyền cho chiến dịch vận động bằng việc lấy ngày 10/8 làm Ngày Da Cam Việt Nam và kêu gọi (hay bắt buộc) người dân đóng góp và ký tên yểm trợ vụ kiện.

Hồ sơ vụ kiện lần này chỉ sơ lược trường hợp Bác sĩ DQHoa mà không đi vào chi tiết như hồ sơ nguyên thủy. Có lẽ vì nhận thấy đã để lộ quá nhiều sơ hở trong trường hợp này qua những tuyên bố của Bác sĩ Hoa tại Paris vừa qua chăng?

Đây là một vụ kiện dân sự tập thể, thiết nghĩ những điều luận tôị như tội ác chiến tranh, tội diệt chủng, tội ác chống nhân loại của Nguyên đơn không nằm trong thẩm quyền của một tòa án dân sự và cũng không có căn bản khoa học để đứng vững, cùng các hồ sơ bịnh lý của từng nạn nhân không đủ yếu tố khách quan và bằng chứng khoa học để có thể thuyết phục được Ông chánh án Breinstein ở Brooklyn.

Theo tin tức cập nhật mới nhất từ tòa án về các diễn biến của vụ kiện được ghi nhận như sau:

1- Ngày 10/10 các Bị đơn, nghĩa là các công ty hóa chất sẽ phải nộp "motion" để xin hủy án vì không có bằng chứng khoa học từ các Nguyên đơn;

2- Phía Nguyên đơn sẽ có 30 ngày để nộp các phản bác cũng như những chứng minh lên tòa án. Và phía Việt Nam đã chuẩn bị hơn 600.000 trang tài liệu;

3- Và sau cùng phía Bị đơn có hai tuần lễ để trả lời các phản biện của Nguyên đơn.

Do đó, phiên xử đầu tiên và sớm nhất chỉ có thể xảy ra vào tháng 12/2004 và cũng có thể sẽ không bao giờ xảy ra vì Ông chánh án có quyền tuyên bố hủy bỏ vụ kiện vì Nguyên đơn không hội đủ bằng cớ xác đáng để chứng minh. Chúng ta hãy chờ xem trong những ngày sắp tới. Kính chào Quý thính giả của Đài ACTD.