Diễn biến mới nhất của vụ kiện chất da cam của Việt Nam

0:00 / 0:00

Nguyễn An, phóng viên đài RFA

Ngày 18 tháng 1 năm 2005 vừa qua, luật sư đại diện cho các nguyên đơn Việt Nam gởi văn kiện đến tòa án Brooklyn ở New York để phản bác yêu cầu hủy bỏ đơn khiếu nại của các công ty hóa chất Hoa Kỳ, đã được đệ nạp lên tòa vào ngày 2 tháng 11 năm 2004.

Ðể tìm hiểu thêm về diễn biến mới nhất của vụ kiện chất da cam của Việt Nam, Nguyễn An của ban Việt ngữ trao đổi với Kỹ sư Nguyễn Minh Quang, một chuyên viên thuộc Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. Trước hết, ông cho biết về các văn kiện mà luật sư bên nguyên đơn đã đệ nạp tại tòa án Brooklyn, New York.

Đáp: Theo quy định của chánh án Weinstein, ngày 18 tháng 1 năm 2005, luật sư bên nguyên đơn đã đệ nạp lên tòa án Brooklyn tất cả 23 văn kiện dày hơn 1.000 trang để phản bác các lập luận mà luật sư bên bị đơn đưa ra để yêu cầu tòa hủy bỏ đơn khiếu nại của Việt Nam.

Quan trọng nhất là ba văn kiện có tiêu đề (1) “Biên bản ghi nhớ về luật pháp để phản đối việc yêu cầu tòa hủy bỏ tất cả đơn khiếu nại vì thiếu cơ sở pháp lý của luật pháp quốc gia,”

(2) “Biên bản ghi nhớ về luật pháp của nguyên đơn để phản đối việc yêu cầu tòa bác đơn khiếu nại dựa trên luật bảo vệ nhà thầu của chánh phủ,”

và (3) “Bảng tóm tắt để phản đối việc yêu cầu tòa bác bỏ các khiếu nại về thương tật cá nhân dựa trên luật giới hạn an toàn sản phẩm.”

Hỏi: Kỹ sư có thể cho biết thêm chi tiết về các văn kiện nầy không ạ?

Đáp: Trong văn kiện đầu tiên dài tổng cộng 219 trang, nguyên đơn lập luận rằng các công ty hóa chất Hoa Kỳ đã có những "hành động tội lỗi (culpable conduct)" vì đã "cung cấp hóa chất độc hại (toxic chemicals), mặc dù họ biết rằng các hóa chất nầy rất nguy hiểm và không thích hợp và được dùng trong cuộc chiến để đầu độc (poison) cũng như để gây thiệt hại bừa bãi (indiscriminate harm), khổ đau không cần thiết (unnecesary suffering), thương tật, và tử vong cho thường dân cũng như chiến binh ở nhiều vùng rộng lớn Việt Nam."

Nguyên đơn cũng lập luận rằng “việc cung cấp một số lượng hóa chất độc hại lớn lao mặc dù biết rằng chúng sẽ được phun xuống nhiều vùng có dân cư rộng lớn trong cuộc chiến Việt Nam thì vi phạm luật pháp quốc tế” mà điển hình là Ðiều 23 của Quy định Hague, Quy ước Geneva 1949, và Nghi thức Geneva 1925.

Nguyên đơn cũng yêu cầu tòa ra lệnh cho bị đơn phải “bồi thường (make restitution)” những thiệt hại mà họ đã gây ra cho dân tộc và đất nước Việt Nam, những thiệt hại do quân đội Hoa Kỳ vô tình tác động nhưng các công ty hóa chất có thể tiên đoán và phòng tránh.”

Hỏi: Theo sự hiểu biết của chúng tôi thì các luật lệ mà Kỹ sư vừa nêu chỉ có thể áp dụng cho việc sử dụng chất độc (poison) hoặc vũ khí chứa chất độc (poisoned weapons) của các lực lượng chiếm đóng (occupying powers). Kỹ sư có thể cho biết tại sao nguyên đơn Việt Nam lại trích dẫn các luật lệ nầy cho việc sử dụng thuốc khai quang ở Việt Nam?

Đáp: Thưa đúng như vậy. Nhưng vì muốn sử dụng các luật lệ quốc tế nổi tiếng nầy nên nguyên đơn đã khẳng định "chất da cam/dioxin" là "thuốc độc" và cáo buộc rằng "... môi trường Việt Nam ở nhiều nơi vẫn bị ô nhiễm và nó [chất da cam/dioxin] tiếp tục đầu độc, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đối với sức khỏe, và gây thống khổ không cần thiết cho cư dân ở đây cho đến ngày nay."

Văn kiện phản bác đầu tiên của nguyên đơn cũng ghi rõ rằng: “Mặc dù bị đơn có thể chất vấn nguyên đơn trong việc tham khảo luật và án lệ thuộc về tội ác của các lực lượng chiếm đóng, vai trò của Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa trong cuộc chiến nổi dậy ở Việt Nam thì giống như một lực lượng chiếm đóng hơn là một phe tham chiến bình thường. Chất da cam không được phun ở miền Bắc, nó được phun ở miền Nam, là một tỉnh của Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa, ở đó các căn cứ và các cuộc tuần phòng bị tấn công bởi lực lượng nổi dậy.”

Hỏi: Kỹ sư có cho biết một trong những cơ sở pháp lý mà bên bị đơn dùng để yêu cầu hủy bỏ đơn khiếu nại của Việt Nam là luật bảo vệ nhà thầu của chánh phủ. Phía nguyên đơn phản bác như thế nào?

Đáp: Thưa đúng như vậy. Phía bị đơn đã dùng luật bảo vệ nhà thầu của chánh phủ để chứng minh rằng họ không có trách nhiệm với chất da cam mà họ sản xuất dựa theo luật an toàn sản phẩm. Chính chánh án Weinstein cũng chấp nhận cơ sở pháp lý nầy khi hủy bỏ vụ kiện của hai cựu chiến binh Hoa Kỳ Isaacson và Stephenson vào ngày 16 tháng 11 năm 2004 vừa qua.

Nhưng bên nguyên đơn lập luận rằng luật bảo vệ nhà thầu của chánh phủ không thể áp dụng cho đơn khiếu nại của Việt Nam vì chánh phủ Hoa Kỳ đã vi phạm luật pháp quốc tế khi quyết định sử dụng chất da cam và các hóa chất khác mặc dù chánh phủ Hoa Kỳ biết ngay từ đầu là chúng có chất độc hoặc không chịu ngừng sử dụng khi khám phá ra tính độc hại của dioxin.

Nguyên đơn còn cáo buộc rằng việc dùng thuốc diệt cỏ và thuốc khai quang chứa đầy (laden) chất độc dioxin cũng bao gồm trong định nghĩa của Nguyên tắc Nuremberg về tội ác chiến tranh (war crimes) và tội ác chống nhân loại (war against humanity).

Hỏi: Tại sao nguyên đơn không nói thẳng là việc sử dụng thuốc diệt cỏ và thuốc khai quang vi phạm Nguyên tắc Nuremberg thay vì nói là bao gồm trong định nghĩa về tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại?

Đáp: Có thể nói đây là một xảo thuật của các luật sư kiện tụng (trial layers) cho phù hợp với lập luận cố hữu của phía Việt Nam, bởi vì từ năm 1961, họ đã tố cáo Hoa Kỳ tiến hành chiến tranh hóa học chống lại nhân dân Việt Nam và vi phạm Nguyên tắc Nuremberg, nhưng Nguyên tắc Nuremberg không hề đề cập đến việc sử dụng thuốc diệt cỏ hoặc thuốc khai quang.

Nguyên tắc Nuremberg về tội ác chiến tranh bao gồm ám sát; ngược đãi hay nô lệ thường dân trong vùng bị chiếm đóng; ám sát hay ngược đãi tù binh hoặc thường dân; giết con tin; cướp bóc tài sản công hoặc tư, phá hủy bừa bãi thành phố, thị trấn, và làng mạc; hoặc những tàn phá không cần thiết về mặt quân sự. Nguyên tắc Nuremberg về tội ác chống nhân loại bao gồm ám sát; tiêu diệt; nô lệ; trục xuất; hành động vô nhân tính đối với thường dân; hành hạ vì chính kiến, tôn giáo, hoặc chủng tộc khi các hành động nầy vi phạm tội chống lại hòa bình hoặc tội ác chiến tranh.

Hỏi: Theo chỗ chúng tôi được biết, các công ty hóa chất Hoa Kỳ yêu cầu tòa hủy bỏ đơn khiếu nại đòi bồi thường thương tật cá nhân dựa trên luật giới hạn thời gian. Phía nguyên đơn phản bác ra sao, thưa Kỹ sư?

Đáp: Dựa theo luật giới hạn về thời gian, bên bị đơn lập luận rằng hầu hết trường hợp của các nguyên đơn phải bị bác vì họ đã biết thương tật và nguyên nhân của nó mà không khởi kiện trước ngày 30 tháng 1 năm 1994, tức quá thời hạn 10 năm kể từ ngày nộp đơn khiếu nại. Bên nguyên đơn lập luận rằng mãi về sau nầy họ mới biết nguyên nhân của thương tật là chất da cam, chứ trước đó thì họ chỉ biết họ có tiếp xúc với thuốc diệt cỏ mà thôi.

Nguyên đơn cũng lập luận rằng tin tức tuyên truyền qua các phương tiện truyền thông về ảnh hưởng của chất da cam trước năm 1994 không đủ để chứng minh rằng các nguyên đơn đã biết hoặc có thể biết được nguyên nhân gây thương tật cho họ. Nguyên đơn cũng không thể mướn luật sư Mỹ để bảo vệ quyền lợi và cũng không thể khởi kiện trước năm 1994 vì lệnh cấm vận của Hoa Kỳ.

Hỏi: Theo Kỹ sư, kết quả vụ khiếu nại của Việt Nam sẽ như thế nào?

Đáp: Thưa anh, tôi nghĩ rằng bản tuyên bố của Bộ Tư pháp Hoa Kỳ gởi cho chánh án Weinstein ngày 12 tháng 1 năm 2005 vừa qua có lẽ là câu trả lời thích hợp nhất.

Trong bản tuyên bố nầy, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã yêu cầu hủy bỏ đơn khiếu nại của Việt Nam vì những lý do như sau: (1) việc xét xử đơn khiếu nại sẽ xâm phạm đến quyền hạn vị Tổng tư lệnh của hành pháp, (2) các luật lệ quốc tế mà nguyên đơn đưa ra không đủ để làm cơ sở pháp lý cho đơn khiếu nại, (3) hành pháp đã cứu xét và khẳng định rằng việc sử dụng thuốc khai quang không vi phạm luật pháp quốc tế,

(4) tòa án phải tôn trọng quan điểm của hành pháp trong việc diễn dịch các hiệp ước và luật pháp quốc tế, và (5) nếu tòa án chấp nhận đơn khiếu nại của nguyên đơn hợp lệ về phương diện luật pháp quốc tế, thì luật bảo vệ nhà thầu của chánh phủ phải được áp dụng đối với đơn khiếu nại nầy.

Trân trọng kính chào Quý thính giả của Ðài.