Luật sư Trần Thanh Hiệp - Nguyễn An
Việc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có tên trong sổ đen nhân quyền “CPC” cho thấy rằng, nhân quyền là một vấn đề bức xúc và khó khăn của Hà Nội trên con đường Việt Nam hội nhập vào cộng đồng thế giới. Tại sao đã có nhiều cuộc thương lượng giữa Hà Nội và Hoa Thịnh Đốn mà mọi việc nay xem ra vẫn chưa ổn thỏa?

Những khó khăn, nếu có, thì chúng nằm ở đâu? Liệu có hy vọng gì cải thiện được tình trạng này trong tương lai không? Nguyễn An, biên tập viên của Đài Á Châu Tự Do cùng với Luật sư Trần Thanh Hiệp, chủ tịch Trung Tâm Việt Nam về nhân quyền ở Paris, mạn đàm về vấn đề này trong một sê ri năm bài.
1. Chủ đề bài thứ nhất là “Quá trình hình thành, đột xuất và phát triển của nhân quyền”.
Câu hỏi đầu tiên được đặt ra với luật sư Trần Thanh Hiệp là, ông có ngạc nhiên không khi thấy trong cuộc điều trần ngày 26-10-2005 vừa qua tại quốc hội Hoa Kỳ, các diễn giả đều khuyến cáo nên giữ tên Việt Nam trong danh sách “CPC” mặc dầu trước đó hai phía Mỹ và Việt Nam đã có nhiều cuộc thương lượng về vấn đề nhân quyền
Trần Thanh Hiệp: Tôi không ngạc nhiên, khi tôi hiểu rằng thương lượng ở đây chỉ là tìm được thỏa thuận giữa hai phía về mức độ thỏa mãn các yêu sách của phía Mỹ liên quan đến nhân quyền ở Việt Nam. Vì nhân quyền ở Việt Nam không phải là một vấn đề thuần túy Mỹ, tuy rằng vấn đề nhân quyền này có những ảnh hưởng nhất định và quyết định trong bang giao Việt-Mỹ.
Cho đến bây giờ, hai bên vẫn giữ kín nội dung của các cuộc thương lượng, không ai biết thật rõ nội dung của cuộc thương lượng này là gì và sự tiến triển của nó ra sao. Nhưng ta có thể phỏng đóan rằng Việt Nam có thể đã hứa chấm dứt chính sách đàn áp tôn giáo và, rộng hơn nữa, chịu thi hành nghiêm chỉnh những nghĩa vụ pháp lý về nhân quyền mà Việt Nam đã cam kết. Có lẽ Việt Nam chưa thực hiện lời hứa này đến mức cần có.
Không thể quay ngược bánh xe lịch sử
Hà Nội nay đang bị dồn vào thế không thể quay ngược bánh xe lịch sử được nữa, phải chấp nhận tuân theo quy phạm nhân quyền phổ quát, mà Hà Nội vẫn khăng khăng gạt bỏ, nại cớ nguồn gốc phương Tây của nó.
Nguyễn An: Giả dụ trong những ngày sắp tới, Hà Nội chịu nhượng bộ phía Mỹ thì liệu vấn đề nhân quyền ở Việt Nam có thể coi như đã được giải quyết thỏa đáng rồi hay không?
Trần Thanh Hiệp: Theo tôi, câu trả lời chắc chắn phải là không. Như tôi vừa nói, vấn đề nhân quyền ở Việt Nam không phải là một vấn đề hoàn tòan Mỹ. Nhà cầm quyền Hà Nội không thể chỉ tìm giải pháp cho vấn đề này với phía Mỹ mà phải tìm với nhân dân Viêt Nam. Người dân Việt Nam mới là những chủ thể mà nhà cầm quyền Hà Nội phải thỏa mãn, trên cơ sở Việt Nam chứ không phải theo tiêu chuẩn Mỹ.
Nguyễn An: Đó chính là điều mà nhà cầm quyền Hà Nội luôn luôn nại ra để tự bào chữa trước những lời chỉ trích Hà Nội vi phạm nhân quyền?
Trần Thanh Hiệp: Hà Nội liên tục và nhất quán theo đuổi chính sách dùng bạo lực và pháp luật cưỡng đoạt hết mọi nhân quyền long trọng hứa hẹn với nhân dân, bất chấp luật quốc tế đã minh thị công nhận cho bất cứ ai, dù ở đâu, cũng có và được có những nhân quyền này.
Tôi cho rằng Hà Nội nay đang bị dồn vào thế không thể quay ngược bánh xe lịch sử được nữa, phải chấp nhận tuân theo quy phạm nhân quyền phổ quát, mà Hà Nội vẫn khăng khăng gạt bỏ, nại cớ nguồn gốc phương Tây của nó.
Nhân quyền phổ quát
Nguyễn An: Luật sư vừa nói đến nhân quyền phổ quát. Xin hỏi ông, nhân quyền phổ quát là gì?
Trần Thanh Hiệp: Bàn về khái niệm nhân quyền phổ quát, muốn cho đầy đủ, thì phải bàn về nhiều mặt. Ở đây tôi xin phép chỉ bàn về vài điểm chính thôi. Tôi muốn nhấn mạnh rằng tuy đã có nhiều người đưa ra nhiều định nghĩa nhưng hiện nay không có, hay chưa có, một định nghĩa ngắn gọn và thật đầy đủ về nhân quyền nói chung.
Quyền và khả năng tự do làm hay không làm này họp lai thành nhân quyền và là phẩm giá của con người, làm cho nó khác với cỏ cây và súc vật. Đó là loại nhân quyền phổ quát được dự liệu trong các Công ước quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã ký kết tham gia từ năm 1982.
Điều này không có nghĩa là nhân quyền không thể định nghĩa được. Mà là nhân quyền có nhiều mặt nên khó tóm gọn lại trong một định nghĩa thật tổng quát. Hơn nữa vì nhân quyền không ngừng phát triển trong quá trình biến đổi của nó nên cũng khó mà tìm ra được một định nghĩa ổn định. Tuy nhiên, ở giai đoạn phát triển sau cùng của nó, tôi tạm gọi là giai đoạn nhân quyền phổ quát,
Có thể tạm định nghĩa nhân quyền là “những quyền (droits, rights) và khả năng tự do tùy ý làm hay không làm (faculté, faculty) mà bất cứ con người nào, nam hay nữ, sang hay hèn, bất luận ở đâu, cũng được công nhận là có và được luật quốc tế và luật quốc gia bảo đảm, để hành sử giữa đồng loại với nhau và nhất là đối với Nhà nước”.
Quyền và khả năng tự do làm hay không làm này họp lai thành nhân quyền và là phẩm giá của con người, làm cho nó khác với cỏ cây và súc vật. Đó là loại nhân quyền phổ quát được dự liệu trong các Công ước quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã ký kết tham gia từ năm 1982.
Quá trình biến đổi lâu dài
Nguyễn An: Hồi nãy ông có nói là để đạt được mức phổ quát này, nhân quyền đã có một quá trình biến đổi lâu dài? Quá trình ấy diễn ra thế nào?
Trần Thanh Hiệp: Có những nhà nghiên cứu đã nói rằng nhân quyền đã nẩy mầm từ những năm 3200 trước Công nguyên, tức là cách đây hơn 5000 năm. Ta có thể coi đó như là thời tiền sử của nhân quyền. Còn thời minh sử của nhân quyền ở phương Đông bắt nguồn tử thế kỷ thứ VI trước Công Nguyên, ờ phương Tây, từ cuối thế kỷ thứ IV.
Tiếp theo là thời kỳ hình thành khi ẩn khi hiện, kéo dài suốt hàng ngàn năm để đột xuất vào cuối thế kỷ thứ XVIII thông qua hai cuộc cách mạng tư sản dân quyền Mỹ và Pháp. Sau sự đột xuất này là thời kỳ tăng tiến và ổn định, đánh dấu bằng sự ra đời của Tuyên ngôn thế giới nhân quyền 1948, hai Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa 1962.
Đó là thời kỳ định hình của nhân quyền và trải qua ba đời kể từ khi nó đột xuất đến nay, nhân quyền đã đạt tới quy mô phổ quát để thực sự là thuộc tính của loài người. Vì phổ quát nên nhân quyền phải tương thuộc (interdépendant, interdependent), bất khả phân (indivisible indivisible). Những năm 2000, nói chuyện nhân quyền là phải nói tới cả ba thuộc tính phổ quát, tương thuộc và bất khả phân.
Nhân quyền ở Việt Nam
Chúng tôi hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp thêm vào vấn đề này từ quý thính giả. Xin gửi email về Vietnamese@www.rfa.org hay gọi đến 202 530 7775
Nguyễn An: Còn nhân quyền ở Việt Nam thì sao?
Trần Thanh Hiệp: Ở Việt Nam, thời tiền kỳ sử của nhân quyền dài hơn thời kỳ minh sử. Ở Việt Nam nhân quyền đã không đột xuất một cách ngoạn mục như ở phương Tây. Nhưng vẫn có thể khẳng định, mà không sợ bị chỉ trích là sai lầm, rằng dưới các triều đại nhà Lý, nhà Trần, nhà Lê.
Và nhất là qua định chế xã thôn tự trị, các loại quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của luật quốc tế hiện hành đều đã hiện hữu ở Việt Nam thời xưa, dĩ nhiên chỉ mới ở hình thức phôi thai mà thôi. Vấn đề cần đặt ra là tìm hiểu xem vì sao mà tình trạng nhân quyền ở Việt Nam hiện nay lại trở thành mối quan tâm đặc biệt của dư luận thế giới?
Nguyễn An: Xin cảm ơn Luật sư Trần Thanh Hiệp và xin được dành vấn đề ấy cho buổi thảo luận kế tiếp.
Quý thính giả vừa nghe bài thứ nhất trong sê ri năm bài của cuộc trao đổi về Triểm Vọng cải thiện nhân quyền ở Việt Nam giữa BTV Nguyễn An của ban Việt ngữ và lụât sư Trần Thanh Hiệp, chủ tịch Trung tâm Việt Nam về nhân quyền ở Paris.
Xin được nhắc rằng, ý kiến của luật sư Trần Thanh Hiệp không nhất thiết phản ánh quan điểm của ban Việt ngữ đài Á châu tự do, và chúng tôi hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp thêm vào vấn đề này từ quý thính giả. Xin gửi E mail về Vietnamese@www.rfa.org hay gọi đến 202 530 7775