Thanh Trúc, phóng viên đài RFA
Một buổi hội thảo về tệ nạn buôn người và tự do trên thế giới được tổ chức sáng thứ Hai vừa qua tại đại học John Hopkins ở Washington DC, do hai tổ chức phi chính phủ là Freedom House và Dự Án Bảo Vệ thuộc Khoa Nghiên Cứu Quốc Tế của đại học John Hopkins bảo trợ. Thanh Trúc tường trình chi tiết.

Tệ nạn buôn người, một trong những vấn nạn lớn của thế giới ngày nay, đang lộng hành tại những nước mà luật pháp không nghiêm minh và tham nhũng thì lan tràn chi phối guồng máy chính quyền.
Hội thảo về nạn buôn người và tự do là tìm ra mối liên hệ mấu chốt giữa mức độ tự do của một quốc gia với nỗ lực của chính phủ một nước trong việc chống nạn buôn người.
Với nhiều hình thức đa dạng
Buôn người ở đây không phải đơn giản chỉ là tìm cách đưa người vào đường mãi dâm, mà phải coi đó là nạn nô lệ thời hiện đại, với những hình thức đa dạng như xuất khẩu lao động, di cư tìm việc làm, cưỡng bách lao động, lao động thiếu nhi, cũng như buôn bán phụ nữ trẻ em vào đường mãi dâm.
Đó là nội dung buổi thảo luận về Buôn Người Và Tự Do ở đại học John Hopkins , khoa nghiên cứu quốc tế , bảo trợ bởi hai tổ chức phi chính phủ Freedom House và Dự Án Bảo Vệ của Khoa Nghiên Cứu Quốc Tế trong đại học John Hopkins.
Về chủ đề Buôn Người Và Tự Do, bà Paula Schriefer, giám đốc pháp lý của Freedom House , cho biết :
Tự do thực sự trong một quốc gia sẽ phát huy quyền lợi của công dân trong quốc gia đó, giúp họ thoát được sự đe dọa của những mạng lưới buôn người dưới hình thức này hay hình hình thức khác. Tôi e rằng sang năm Việt Nam vẫn hãy còn nằm trong danh sách những nước chưa được tự do lắm vì chưa có cơ chế bảo vệ nhân quyền và và phòng chống buôn người rõ ràng.
“Trong cái viễn ảnh mà bộ ngoại giao Hoa Kỳ từng khuyến cáo mấy năm trước rằng nạn buôn người là hình thức nô lệ thời hiện đại, trong công việc theo dõi tình hình tự do trên thế giới Freedom House nhận thức rằng những ai không may là nạn nhân thì cũng đã bị tước đoạt quyền tự do căn bản nhất của con người.
Đó là tự do cư trú, tự do di chuyển, tự do tìm kiếm công việc, tự do lựa chọn người bạn đời hay chí ít là tự do lựa chọn người mình có thể chung sống. Họ bị biến thành nô lệ lao động, nô lệ tình dục, mất hết nhân phẩm. Đó là hai mặt của một vấn đề mà Freedom House muốn nhấn mạnh trong buổi hội thảo hôm nay.”
Tài liệu mà tổ chức Freedom House phân phát cho người tham dự buổi hội thảo Buôn Người Và Tự Do là danh sách những nước thiếu những quyền tự do căn bản để có thể bảo vệ cho con người khiến tệ nạn bị mua bán.
Vì thiếu tự do
Trong danh sách ba mươi hai nước vì thiếu tự do mà dẫn đến sự hoành hành của nạn buôn người, được chia làm ba bậc từ Tier 1 tức không trầm trọng đến Tier 2 là có vấn đề, rồi Tier 2 watch list tức cần theo dõi và Tier 3 là quá tệ, thì Việt Nam đứng hạng 13 trong nhóm các nước Tier 2 nhưng không cần phải theo dõi sát.
Đối với giám đốc pháp lý Paula Schriefer của Freedom House, điều này có nghĩa là: "Tuy không nằm trong nhóm cần được theo dõi, Freedom House vẫn nhận thấy Việt Nam cần một cơ chế tích cực để chống trả và giảm thiểu nạn buôn người. Chính sách của nhà nước và sự tăng lên hay giảm đi của tệ buôn người có liên quan mật thiết với nhau.
Tự do thực sự trong một quốc gia sẽ phát huy quyền lợi của công dân trong quốc gia đó, giúp họ thoát được sự đe dọa của những mạng lưới buôn người dưới hình thức này hay hình hình thức khác. Tôi e rằng sang năm Việt Nam vẫn hãy còn nằm trong danh sách những nước chưa được tự do lắm vì chưa có cơ chế bảo vệ nhân quyền và và phòng chống buôn người rõ rang.”
Diễn giả chính của buổi hội luận là đặc sứ Mark Lagon, chuyên trách theo dõi và phòng chống buôn người ở Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Bên cạnh đó, hai tổ chức ngoài chính phủ khác cũng tham gia hội thảo là International Justice Mission tức Phái bộ Công Lý Quốc Tế , và Solidarity Center, tạm dịch là Trung Tâm Đoàn Kết thuộc Bộ Lao Động Hoa Kỳ.
Lên tiếng với đài Á Châu Tự Do trước buổi hội thảo, đặc sứ Mark Lagon nói: "Thông điệp tôi muốn gởi ra hôm nay là để cổ vũ cho dân chủ thì phải chống lại , phải dẹp bỏ những hình thức buôn bán con người.
Nói cho rõ hơn, thứ nhất phải qui trách nhiệm, phải truy tố những kẻ buôn bán con ngừơi, thứ hai là tìm kiếm và bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ, cho những nhóm di dân, thứ ba là chống tham nhũng và thứ tư là bảo đảm là chính quyền thuận hợp tác với các tổ chức ngoài chính phủ để có một mối tương quan lành mạnh và tích cực trong công cuộc bài trừ tệ buôn người."

Với câu hỏi là tiếp tục công việc của vị tiền nhiệm tức đặc sứ John Miller , nay đến lượt mình thì ông hiểu gì về tệ nạn buôn người ở Việt Nam mà tổ chức phi Freedom House đưa vào danh sách những nước thiếu tự do liên quan đến tệ nạn buôn người, đặc sứ Mark Lagon trả lời:
“Chúng tôi đặc biệt lưu tâm đến những đối tượng dễ gặp nguy cơ bị buôn bán ở Việt Nam, và cả vấn đề buôn người từ Việt Nam ra bên ngoài. Thí dụ gần nhất tôi có thể nêu lên ổ đây là bộ phim Holly mới được trình chiếu ở đây, kể về câu chuyện một em gái Việt Nam bị bán từ động mãi dâm này sang nhà chưa khác ở đất Kampuchia.
Đây chỉ là một trong những khía cạnh của cả một vấn nạn rộng lớn hơn, tôi muốn nói đến những người có quyền lực, những viên chức chính phủ, những kẻ thừa hành pháp luật , hoặc là lãnh đạm trước chuyện buôn người, hoặc là vì tham nhũng mà tiếp tay với bọn buôn người khiến tệ nạn này càng ngày càng khó dẹp bỏ.”
Đối thoại nghiêm túc và thẳng thắn
Đề cập đến phúc trình thường niên về tệ nạn buôn người trên thế giới mà Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thực hiện và công bố hàng năm, trong đó có nói đến Việt Nam, đặc sứ Mark Lagon cho rằng đây là phương cách khuyến cáo trực tiếp đồng thời dẫn đến đối thoại nghiêm túc và thẳng thắn với chính phủ Việt Nam về tệ nạn buôn người.
“Phúc trình thường niên về nạn buôn người còn nhắm mục đích giúp đỡ quốc gia đang có tệ nạn buôn bán con người biết làm thế nào để áp dụng luật lệ một cách hữu hiệu nghiêm khắc hơn, làm sao để trừng trị thủ phạm buôn người, và quan trọng nhất là giúp đỡ hổ trợ cho nạn nhân chứ không buộc tội hay kỳ thị họ. Chúng ta cần đến với nạn nhân bởi họ không tự kiếm con đường bất lương để theo, chúng ta cần cho họ cơ hộp được phục hồi danh dự và nhân phẩm.”
Được hỏi cụ thể thì Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã hổ trợ thế nào cho Việt Nam trong việc phòng chống và giúp đỡ nạn nhân của nạn buôn người, đặc sứ Mark Lagon cho hay Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đang tài trợ cho những chương trình huấn luyện để phòng chống buôn người đồng thời giúp đỡ nạn nhân phục hồi nhân cách thông qua những chương trình của Tổ Chức Di Cư Quốc Tế IOM ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Ông nói chính quyền Việt Nam cần hiểu là người Mỹ không chỉ nói suông hay diễn thuyết suông mà khi đã cảnh giác thì phải có hành động. Hành động không chỉ là bỏ tiền ra giúp mà còn kêu gọi những nước thân cận với Mỹ cùng lên tiếng để Việt Nam nhận ra mức độ nguy hại của vấn đề.

“Tôi muốn nhắc lại rằng nghèo khổ là nguyên nhân của tệ buôn người. Nhưng đó không phải là nguyên nhân duy nhất. Nạn buôn người còn liên quan đến các băng đảng tội ác, bọn bất lương, những kẻ khai thác con người không thể tự vệ để kiếm lợi.”
Sau buổi hội thảo là phần hỏi đáp mà cử tọa nêu ra với các diễn giả. Những vấn đề đáng chú ý hay nhận thức mới được các thuyết trình viên khác nêu ra để bàn cãi .
Bà Holly Burkhalter, thuộc tổ chức có tên là Phái bộ Công Lý Quốc tế, khẳng định rằng đã có nạn nhân thì chắc chắn phải có kẻ vi phạm, và theo bà kẻ vi phạm thì phải bị trừng trị thật nặng vì họ chính là những người khởi xướng và ra tay, trong lúc người bị buôn bán nhiều phần là bị lường gạt, bị bắt buộc, bị de dọa.
Ông Mohamed Mattar , thuộc Dự Án Bảo Vệ của khoa Nghiên Cứu Quốc Tế ở đại học John Hopkins, cho rằng :
“Sự thiếu thốn một hệ thống pháp lý cấp quốc gia là trở ngại lớn trong công việc phòng chống những hình thức buôn người . Tôi tin Hoa Kỳ cũng chia sẻ quan điểm này với thế giới qua đạo luật bảo vệ nạn nhân buôn người.
Nếu một đất nước mà không ban hành được một đạo luật chống buôn người , qua đó nhằm quảng bá, giáo dục và hổ trợ cho người dân hiểu biết thì có thể coi như quốc gia đó đang thất bại trong việc chống trả với tệ nạn buôn bán con người.”
Số liệu về buôn người ở Châu Á của Tổ Chức Lao Động Quốc Tế ILO, được bà Neha Misra, thuộc Solidarity Center, tức Trung tâm Liên Kết, nhắc tới là :
“Năm 2005 Châu Á có 9 triệu 500 ngàn người bị buôn qua nước khác bằng hình thức lao động hay di cư, hơn 5% trong số đó là nô lệ tình dục.”
Tuy nhiên theo những tham dự viên buổi hội luận Buôn Người Và Tự Do hôm thứ Hai thì con số phụ nữ Châu Á bị buôn vào đường mãi dâm và hôn nhân cưỡng bách xem ra cao hơn rất nhiều.