Nguyễn Quốc Khải và Việt Long
Nền kinh tế Việt Nam trong năm qua đạt những thành tựu có thể được gọi là khá ngoạn mục. Bên cạnh đó cũng còn một số công tác đã có thể được làm tốt hơn, hay sẽ tốt hơn trong năm tới trở đi. Việt Long phỏng vấn giáo sư Nguyễn Quốc Khải về các thành tựu cũng như bất cập trong nền kinh tế Việt Nam trong năm qua, và những gì Việt Nam có thể làm để phát triển ngoạn mục hơn nữa.

Giáo sư Nguyễn Quốc Khải nguyên là nhân viên Ngân hàng Thế giới, từng là giáo sư thỉnh giảng tại trường Cao học quốc tế vụ của trường đại học John Hopkins ở thủ đô Washington của Hoa Kỳ.
Năm 2006 đã chứng kiến một số biến đổi quan trong liên hệ đến nền kinh tế Việt-Nam như việc thực thi giảm thuế trong khối ASEAN Free Trade Area (AFTA), thương thuyết với Hoa-Kỳ về Quy Chế Thương Mại Bình Thường Vĩnh Viễn (Permanent Normal Trade Relations – PNTR), chuẩn bị gia nhập Cơ Quan Mậu Dịch Thế Giới (World Trade Organization – WTO), và tổ chức Hội Nghị Phát Triển Kinh Tế Á Châu và Thái Bình Dương (Asia – Pacific Economic Cooperation – APEC).
Kinh tế Việt-Nam phát triển khả quan trong năm 2006 với mức 7.8% so với con số của Tổng Cục Thống Kê Việt-Nam là 8.2%. Ba sức đẩy chính cho nền kinh tế của Việt-Nam vẫn là tiêu thụ nội địa, xuất cảng và đầu tư. Nói chung Việt-Nam vẫn chưa có một nền kinh tế thị trường tự do vì sự kiểm soát chặt chẽ và không cần thiết của nhà nước trong hầu hết mọi lãnh vực, nhất là về ngoại thương, quyền sỡ hữu tài sản, và luật pháp.
Đây cũng chính là hàng rào cản làm cho sự phát triển kinh tế bị chậm lại. Ở trong nước, khu vực đầu tư nước ngoài phát triển vượt mức, ngoài sự mong đợi của nhà nước. Việc cải tổ khu vực xí nghiệp quốc doanh vẫn tiến hành chậm chạp và tiếp tục là một gánh nặng cho quốc gia.
Sau khi kiểm điểm một số biến chuyển đặc biệt trong năm 2006, bài phân tách này sẽ bàn về một số lãnh vực chính là mức độ tăng trưởng, tình trạng lạm phát, đầu tư nước ngoài, ngoại thương, phong trào công nhân đình công, và những trở ngại cho sự phát triển. PhảI đợi đến giữa năm 2007 là sớm nhất, chúng ta mới có những con số thống kê đầy đủ của năm 2006. Do đó bài phân tách này cũng chỉ có giá trị sơ khởi.
1. Những biến chuyển đặc biệt trong năm 2006
Năm 2006 đã chứng kiến một số biến đổi quan trong liên hệ đến nền kinh tế Việt-Nam như việc thực thi giảm thuế trong khối ASEAN Free Trade Area (AFTA), thương thuyết với Hoa-Kỳ về Quy Chế Thương Mại Bình Thường Vĩnh Viễn (Permanent Normal Trade Relations – PNTR), chuẩn bị gia nhập Cơ Quan Mậu Dịch Thế Giới (World Trade Organization – WTO), và tổ chức Hội Nghị Phát Triển Kinh Tế Á Châu và Thái Bình Dương (Asia – Pacific Economic Cooperation – APEC).
Trong năm 2006 có 4 biến chuyển kinh tế đặc biệt theo thứ tự thời gian như sau:
Thứ nhất là Việt-Nam gảm thuế đối với tất cả những hàng nhập cảng từ tất cả 10 thành viên của khối AFTA xuống còn 0-5% kể từ ngày 01.01.2006. Đến năm 2012, Việt-Nam sẽ hoàn toàn bỏ thuế nhập cảng như các nước khác trong khối AFTA để cải thiện tình trạng kinh tế trước sự cạnh tranh của Trung Quốc, theo như nhận định của những nhà quan sát quốc tế.
Thứ hai là Việt-Nam đã hoàn thành trách nhiệm tổ chức một hội nghị lớn nhất từ trước đến nay đó là Hội Nghị APEC vào giữa tháng 11, quy tụ nguyên thủ và đại diện của 21 quốc gia và lãnh thổ, trong đó có những nhân vật quan trọng như Tổng Thống Hoa-Kỳ George W. Bush, Tổng Thống Liên Bang Nga Vladimir Putin, Thủ Tứớng Canada Stephen Harper, Chủ Tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào, Thủ Tướng Nhật Shinto Abe, Thủ Tướng Nam Hàn Roh Moo-hyun, Tổng Thống Chí Lợi Michelle Bachelet, Thủ Tướng Úc John Howard, Thủ Tướng Tân Tây Lan Helen Clark, Thủ Tướng Thái Lan Surayud Chulanont, v.v.
Nhân dịp Hội Nghị APEC Tổng Thống Hoa-Kỳ đã tặng một món quà đặc biệt cho Việt-Nam là mang quốc gia này ra khỏi danh sách những nước đáng quan tâm về phương diện vi phạm tự do tôn giáo (country of particular concern – CPC). Ngoài ra tại Hội Nghị APEC, Việt-Nam đã ký kết được một số hợp đồng hợp tác kinh doanh trị giá 2 tỉ Mỹ kim về các lãnh vực như nhiên liệu, du lịch, giải trí, khách sạn, và công nghệ tin học.
Thứ ba là Việt-Nam vào những ngày cuối cùng của Quốc Hội 109 đã được Hoa-Kỳ chấp thuận cho hưởng quy chế PNTR bằng cách thông qua hai dự luật HR 6406 ở Hạ Viện và HR 6111 tại Thượng Viện. Kết quả là kể từ nay việc buôn bán giữa Hoa-kỳ với Việt-Nam sẽ không còn phải được cứu xét lại hàng năm như trước đây chiếu theo Tu Chính Án Jackson – Vanik 1975 của luật Thương Mại Hoa-Kỳ 1974, đối với những nước không có nền kinh tế thị trường như Việt-Nam.
Thứ tư là WTO đã nhận Việt-Nam là thành viên thứ 150 của tổ chức này. Đây là một diễn biến quan trọng nhất đòi hỏi Việt-Nam thực hiện những cải tố kinh tế sâu rộng về nhiều lãnh vực kể cả nông nghiệp, dịch vụ, công nghệ, luật pháp, môi trường, lao động, hành chánh, v.v. Quy chế hội viên WTO vừa tạo cơ hội phát triển kinh tế và đưa ra những thử thách lớn lao cho Việt-Nam. Quy chế này bắt đầu có hiệu quả vào ngày 11.01.2007.
2. Mức kinh tế tăng trưởng cao
Việt-Nam là một nước mức độ kinh tế tăng trưởng cao nhất trong vùng Á châu chỉ đứng sau Trung Quốc. Vốn nước ngoài, đầu tư của nhà nước vào những dự án công cộng, và nhu cầu tiêu thụ nội địa tiếp tục là những yếu tố thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Theo dự kiến mức tăng trưởng của năm 2006 sẽ vào khoảng 7.8% so với 8.4% trong năm 2005.
Việt-Nam là một nước mức độ kinh tế tăng trưởng cao nhất trong vùng Á châu chỉ đứng sau Trung Quốc. Vốn nước ngoài, đầu tư của nhà nước vào những dự án công cộng, và nhu cầu tiêu thụ nội địa tiếp tục là những yếu tố thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Theo dự kiến mức tăng trưởng của năm 2006 sẽ vào khoảng 7.8% so với 8.4% trong năm 2005.
Mức tăng trưởng thuyên giảm một phần do cán cân thương mại thiếu hụt. Trong lãnh vực sản xuất, số lượng dầu thô giảm. Số lượng xe đạp xuất cảng đi xuống vì biện pháp chống bán phá giá của Liên Hiệp Âu châu. Số xe hơi bán ra bớt xuống vì nhu cầu của nhà nước giảm. Đầu tư của nhà nước vào những dự án công cộng bị hạn chế trong năm 2006 vì áp lực lạm phát và số nợ ngoại quốc tiếp tục tăng đều đặn trong nhiều năm qua khiến chính phủ phải thận trọng.
Theo một dự đoán của IMF, tổng sản phẩm nội địa (gross domestic product – GDP) là 60.4 tỉ Mỹ kim và số thu nhập quân bình mỗi người là 715 Mỹ kim vào năm 2006 so với hai con số tương đương của năm 2005 là 53 tỉ Mỹ kim và 636 Mỹ kim.
Theo kế hoạch 5 năm (2006-2010) của nhà nước, đến năm 2010, GDP của Việt nam tính theo thời giá sẽ tăng lên mức từ 85 tới 89 tỉ đô la và GDP tính theo đầu người là từ 950 tới 1,000 đô la. Mục tiêu này có thể đạt được nếu Việt-Nam nâng tỉ số đầu tư lên đến 38% của GDP mỗi năm trong những năm tới và phải vượt qua những trở ngại cho việc phát triển sẽ bàn trong phần cuối bài.
3. Tình trạng lạm phát không thuyên giảm
Mức lạm phát trung bình trong năm 2006 ở vào khoảng 7.6%. Mức độ này tương đối thấp hơm hai năm 2004-2005, nhưng còn khá cao so với những năm 2001-2003 và so với những nước Á châu khác. Nhu cầu nội địa tiếp tục tăng làm cho việc hạn chế lạm phát trở nên khó khăn. Ngoài ra giá cả hàng hóa trên thị trường quốc tế gia tăng.
Ảnh hưởng nhiều nhất đến mức lạm phát là giá thực phẩm (9%), nhà ở, vật liệu xây cất (9.8%), chuyên chở - dịch vụ viễn thông (7.9%), hàng dệt may (6.1%) theo số liệu cho tháng 8, 2006 của Tổng Cục Thống Kê Việt-Nam. Hơn nữa nhà nước tăng lương bổng của khu vực công và mức lương tối thiểu của công nhân lên khoảng 40% bắt đầu có hiệu qủa vào 1/4/2006.
Một điều đáng chú ý là giá xăng dầu tăng nhưng không ảnh hưởng nhiều đến mức lạm phát tại Việt-Nam. Một phần vì xăng dầu chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ (1%) so với thực phẩm (50%) trong công thức tính chỉ số tiêu thụ. Lý do thứ hai là nhà nước vừa giảm thuế nhập cảng lại vừa dùng biện pháp hành chánh để kìm giá xăng dầu. Trong khi nhà nước tăng giá 9 lần từ cuối năm 2003 đến tháng 8, 2006, xăng dầu ở Việt-Nam vẫn rẻ hơn so với giá thị trường quốc tế.
Từ đầu năm 2006, nhà nước Việt-Nam dự trù giảm hay bãi bỏ bao cấp giá đối với một số sản phẩm như xăng dầu và than. Tuy nhiên nhà nước không chủ trương thả nổi hoàn toàn giá cả mà vẫn kiểm soát giá đối với những sản phẩm quan trọng cho nền kinh tế như gạo, đường và thép. Chính sách này ngày càng khó áp dụng vì sau khi hội nhập với thị trường quốc tế, Việt-Nam giảm thuế nhập cảng và phải đối phó với ngân sách thiếu hụt có thể xẩy ra.
Để ngăn chặn lạm phát, Ngân Hàng Nhà Nước Việt-Nam kể từ tháng 6/2006 đã giảm tỉ lệ gia tăng tín dụng xuống còn 21% và gia tăng dự trữ ngoại tệ từ 9.8 vào năm 2005 lên lên 11.2 tuần lễ trị giá hàng nhập cảng.
Lạm phát cao là một trong những rủi ro cho sự phát triển kinh tế. Lạm phát gia tăng sẽ kéo theo lãi xuất và và chi phí sản xuất. Hậu qủa là sự gia tăng đầu tư sẽ bớt vì tiền lời cao và giảm bới khả năng cạnh tranh của hàng xuất cảng. Giới nghèo với đồng lương cố định sẽ chịu nhiều thiệt thòi hơn cả.
Nhiều cuộc nghiên cứu đã chứng minh rằng lạm phát ở mức độ thấp không có ảnh hưởng hoặc còn kinh tế phát triển. Trái lại, khi lên cao tới một mức nào đó (trên 1/3 mức phát triển) lạm phát sẽ gây ra ảnh hưởng tiêu cực, nhất là đối với những nước đang phát triển. Một công trình nghiên cứu của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế cho thấy mức phát triển của tổng sản phẩm nội địa trung bình cho mỗi đầu người ở Việt-Nam liên hệ ngược với mức lạm phát đo bởi chỉ số tiêu thụ từ 1985-2005.
4. Đầu tư nước ngoài gia tăng mạnh
Tính đến ngày 20/12/2006 số vốn nước ngoài cam kết đầu tư vào Việt-Nam lên đến US$10.2 tỉ, vượt xa chỉ tiêu của năm 2006 đã được ấn định là US$6.5 tỉ, tăng 49.2% so với năm 2005 và cao hơn cả số vốn cam kết vào năm 1996 là US$8,640 tỉ trước khi có cuộc khủng hoảng tài chánh Á châu.
Đây là kết quả của việc cải thiện môi trường đầu tư trong vài năm qua và việc Việt-Nam trở thành hội viên của WTO sẽ giúp tăng trưởng khả năng xuất cảng, mở rộng thị trường nội địa, đặc biệt về nhiều khu vực dịch vụ khác nhau.
Số vốn đã cam kết trong năm 2006 bao gồm US$7.6 tỉ dự trù đầu tư vào các dự án mới và số vốn còn lại được bỏ thêm vào những dự án hiện hữu. Nam Hàn, Nhật Bản, Hồng Kông và Hoa-Kỳ là những nước đầu tư vào Việt-Nam nhiều nhất. Tính trên căn bản trung bình cho mỗi đầu người, vốn đầu tư nước ngoài vào Việt-Nam là 373 Mỹ kim vào năm 2005, cao hơn cả Trung Quốc (243 Mỹ kim) và Ấn Độ (42 Mỹ kim) tính theo số liệu của United Nations Conference on Trade and Development (UNCTAD).
5. Ngoại thương phát triển với cán cân thương mại thiếu hụt gia tăng
Xuất cảng là một nguồn lực chính giúp cho kinh tế Việt-Nam phát triển trong những năm qua cũng như 2006. Một điểm tiến bộ là Việt-Nam ngày càng xuất cảng nhiều mặt hàng khác nhau đến nhiều thị trường khác nhau, từ Á qua Âu châu, Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Trung Đông và Phi châu. Sự bành trướng này thực hiện trong khoảng thời gian ngắn.
Trị giá xuất cảng Việt-Nam gia tăng mạnh, đặc biệt nhờ vào thị trường Mỹ mở rộng sau khi Hiệp Định Thương Mại có hiệu lực kể từ cuối năm 2001. Theo đó, thuế nhập cảng trung bình của Hoa-Kỳ giảm từ 40% xuống còn 4%. Trong năm 2001, Việt-Nam xuất cảng qua Hoa-Kỳ một số hàng trị giá 1,053.2 triệu Mỹ kim, và nhập cảng một số hàng của Hoa-Kỳ trị giá 460.4 triệu Mỹ kim.
Chỉ trong 10 tháng đầu của năm 2006, Việt-Nam xuất cảng một số hàng qua Hoa-Kỳ trị giá khoảng 7,224.6 triệu Mỹ kim, tăng 31% so với cùng thời gian của năm 2005 và nhập cảng một số hàng của Hoa-Kỳ trị giá 891.3 triệu Mỹ kim, gia tăng 1.7% trong cùng một thời gian tương tự.
Xuất cảng là một nguồn lực chính giúp cho kinh tế Việt-Nam phát triển trong những năm qua cũng như 2006. Một điểm tiến bộ là Việt-Nam ngày càng xuất cảng nhiều mặt hàng khác nhau đến nhiều thị trường khác nhau, từ Á qua Âu châu, Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Trung Đông và Phi châu. Sự bành trướng này thực hiện trong khoảng thời gian ngắn.
Trên bình diện thế giới, tri giá tổng số hàng xuất cảng của Việt-Nam là 26 tỉ Mỹ kim, gia tăng 24.3 % trong 8 tháng đầu của năm 2006. mặc dù số lượng dầu thô xuất cảng giảm 6.5% nhưng nhờ giá dầu thô trên thị trường quốc tế tăng rất cao, trị giá dầu thô xuất cảng đã đạt được 5.8 tỉ Mỹ kim , tăng 20.3% so với 8 tháng đầu của năm 2005.
Trị giá hàng dệt may xuất cảng là 3.9 tỉ Mỹ kim, tăng 28.2%; hải sản 2 tỉ mỹ kim, tăng 20.8%; đồ gỗ 1.2 tỉ Mỹ kim, tăng 24.4%; đồ điện tử và máy vi tính 1 tỉ Mỹ kim, tăng 18%. Trị giá của tất cả các nông phẩm xuất cảng đều gia tăng trừ gạo.
Lý do là luá tại đồng bằng sông Cửu Long trong năm 2006 bị nạn châu chấu hoành hành, làm thiệt hại khoảng 2% số lượng gạo sản xuất. Ngoài ra nông dân phải bỏ vụ mùa thứ ba để diệt trừ châu chấu. Hậu qủa là trị giá gạo xuất cảng trong 8 tháng đầu của năm 2006 là khoảng trên1 tỉ Mỹ kim, giảm 6.3%.
Trong 5 tháng đầu của năm 2006 Việt-Nam nhập cảng 28.7 tỉ Mỹ kim hàng ngoại quốc, tăng 17.4% so với cùng thời gian của năm 2005, đặc biệt là trị giá máy móc và dụng cụ là 4 tỉ Mỹ kim, tăng 18%, tiếp theo là sản phẩm xăng dầu tăng trị giá 4.2 tỉ Mỹ kim, tăng 25%, thép trị giá gần 1.9 tỉ Mỹ kim, giảm 8.7%; hàng vải và sợi trị giá 2.3 tỉ Mỹ kim, tăng 32.4%.
Cán cân thương mại (trade balance) cho cả năm 2006 dự kiến là sẽ thiếu hụt khoảng 4.8 tỉ Mỹ kim, so với 4.5 tỉ mỹ kim vào năm 2005. Việt-Nam mua vào là 44.1 tỉ và bán ra ít hơn cho thế giới là 39.6 tỉ Mỹ kim. Lý do là công ty ngoại quốc đầu tư và nhập cảng máy móc và dụng cụ giá trị vào Viêt-Nam nhiều hơn trong thời gian này. Trong giai đoạn phát triển công nghệ, mua máy móc là điều cần thiết.
Cán cân vãng lai (current account balance) thường thiếu hụt từ 1 tỉ đến 2 tỉ Mỹ kim vào những năm trước đây. Tình trạng thiếu hụt tiếp tục trong năm 2006 ở khoảng 2.5 tỉ Mỹ kim. Tiền của người Việt cư ngụ ở hải ngoại và công nhân xuất khẩu lao động gửi về Việt-Nam khoảng 3.1 tỉ Mỹ kim trong năm 2005 và 3.5 tỉ trong năm 2006 đã đóng một vai trò quan trọng trong kinh tế Việt-Nam. Đây là một nguồn ngoại tệ lớn so với vốn nước ngoài đầu tư thật sự vào Việt-Nam và tiền viện trợ và nợ ngoại quốc.
Hiện nay có khoảng gần 3 triệu người Việt định cư ở nước ngoài. Ngoài ra có khoảng 300,000 công nhân xuất khẩu làm việc ở ngoại quốc nhiều nhất là tại các nước Á châu như Mã Lai (113,000), Đài Loan (90,000), Nam Hàn (30,000), và Nhật Bản (20,000). Một con số công nhân đáng kể làm việc tại vùng Trung Đông.
6. Phong trào công nhân đình công
Duyệt lại tình hình kinh tế vào năm 2006 mà không nói đến phong trào công nhân đình công là một thiếu sót lớn. Một phúc trình của Bộ LĐTBXH, trong năm 2005 có 147 cuôc đình công, tăng 22 vụ so với năm 2004. Phần lớn những cuộc đình công này bị nhà nước xem là bất hợp pháp theo luật của Việt-Nam. Trong số này, 100 vụ đình công xẩy ra tại những công ty có vốn đầu tư nước ngoài, 39 vụ tại công ty tư nhân nội địa và 8 vụ tại doanh nghiệp nhà nước. Trong năm tháng đầu của năm 2006, người ta ghi nhận được 289 vụ đình công.
Vào tháng 10, 2006 có 15 cuộc đình công trện toàn quốc. Trong đó có 10 cuộc xảy ra tại khu vực Saigon. Ngoài ra nhiều chủ doanh nghiệp có vốn nước ngoài nợ lương, nợ bảo hiểm xã hội hàng tỉ đồng đã bỏ trốn như cá công ty SinWoon Vina, Haimin, Fatec, v.v. theo nguồn tin của Tổng LĐLĐVN.
Duyệt lại tình hình kinh tế vào năm 2006 mà không nói đến phong trào công nhân đình công là một thiếu sót lớn. Một phúc trình của Bộ LĐTBXH, trong năm 2005 có 147 cuôc đình công, tăng 22 vụ so với năm 2004.
Khoảng 100 công nhân thuộc công ty tư nhân hữu hạn NOBLAND sau khi ăn cơm trưa vào ngày 07-12-06 đã bị ngộ độc và đã phải vào 4 bệnh viện mới đủ chỗ điều trị (hình bên). Vào ngày 7/11, 131 công nhân tại công ty may Suhn Chung tại quận 9 Saigon cũng bị ngộ độc thực phẩm. Theo một báo cáo của Liên Đoàn Lao Động, Quận 7, TPHCM, hàng tháng công ty trích 6% lương công nhân nhưng không nộp cho cơ quan bảo hiểm xã hội. Đây là vài thí dụ cho thấy chủ nhân coi thường sức khoẻ của công nhân.
Từ ngày 9.12.2006 tại công ty cổ phần giầy Đông Anh, huyện Đông Anh, Hà Nội, toàn bộ 3.500 công nhân của công ty đã đình công đòi tăng lương, giảm giờ làm, tăng mức ăn ca, thay ban lãnh đạo... Đây là doanh nghiệp sản xuất giày xuất khẩu, có 95% lao động nữ. Trung bình mỗi tháng, người lao động phải làm thêm từ 70 đến 120 giờ với mức lương rẻ mạt, cường độ làm việc cao, thu nhập như vậy không thể đảm bảo sức khoẻ và cuộc sống. Do đó việc bảo vệ công nhân là tối cần thiết.
Để thích nghi với kinh tế thị trường, chương trình bao cấp thất nghiệp được thay thế bằng chương trình bảo hiểm thất nghiệp. Chương trình này được tài trợ bởi sự đóng góp của nhà nước, chủ nhân và công nhân. Cũng theo luật của Việt-Nam, tất cả mọi chủ nhân phải cung cấp cho công nhân dụng cụ bảo vệ, hướng dẫn an toàn lao động, những phương tiện vệ sinh tại nơi làm việc, và những chương trình huấn luyện về an toàn.
Luật còn buộc chính phủ và TLĐLĐVN phát triển và thực hiện những chương trình liên quan đến những vấn đề trên. Luật cũng quy định quyền lợi của công nhân và bồi thường trong trường hợp xẩy ra tai nạn và bệnh tật có liên quan đế nghề nghiệp. Nhưng trên thực tế luật không được thi hành.
Luật Lao Động chưa quy định thành lập Quỹ Hưu Trí Bổ Sung. Mặc dù trên thực tế đây là nhu cầu quan trọng đối với những người lao động. Khi đến tuổi về hưu, người lao động cần có lợi tức để sinh sống lúc tuổi già và sức khoẻ yếu kém.
Để giải quyết tạm thời phong trào đình công, nước đã tăng mức lương tối thiểu tại những công ty có đầu tư nước ngoài lên gần 40%. Lương hàng tháng tăng từ dưới 40 Mỹ kim lên đến mức tối thiểu 55 Mỹ kim tại hai thành phố lớn nhất của Việt-Nam là Hà-Nội và Saigon, 50 Mỹ kim tại các thành phố trung bình, và 45 Mỹ kim tại những nơi còn lại của Việt-Nam. Việc tăng mức lương tối thiểu có hiệu lực bắt đầu vào ngày 1, tháng 4, 2006.
Bộ Lao Động, Thương Binh và Xã Hội và Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt-Nam tỏ ra bất lực. Những cơ quan này không thực sự đại diện cho quyền lợi của công nhân. Do đó mà vào cuối tháng 10 và đầu tháng 11 vừa qua, Công Đoàn Độc Lập Việt-Nam và Hiệp Hội Đoàn Kết Công Nông Việt-Nam đã được thành lập tại Việt-Nam. Phản ứng đầu tiên của nhà nước lúc đầu rất lúng túng nhưng sau đó đã ra lệnh bắt giam một số công nhân lãnh đạo HHĐKCNVN.
7. Những trở ngại cho việc phát triển
Vào đầu năm 2006, ô. Il Houng Lee, Trưởng Đại Diện của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (International Monetary Fund – IMF) tại Việt-Nam đã tuyên bố rằng Việt-Nam có thể mất 18 năm để đuổi kịp Nam Dương, 34 năm đối với Thái Lan và 197 năm với Tân Gia Ba. Điều này có nghĩa là Việt-nam tụt hậu so với nhiều nước ở Á châu dù Việt-Nam có phát triển 7-8% mỗi năm. Vấn đề là làm thế nào để tiếp tục phát triển và phát triển nhanh hơn để thu ngắn khoảng cách biệt.
Người ta rất dễ nhận biết những lý do làm cản trở sự phát triển.
Thứ nhất là chính sách sai lầm. Những nhà lãnh đạo Hà-Nội vẫn chủ trương một nền kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa và vẫn duy trì tư duy của một chế độ kinh tế chỉ huy. Điều này có nghĩa là các xí nghiệp quốc doanh phải giữ một vai trò then chốt trong kế hoạch phát triển kinh tế quốc gia.
Kinh tế Việt-Nam phát triển khả quan nhờ những yếu tố bên ngoài thuận lợi và chính sách vĩ mô thận trọng. Trong khi đó những trở ngại bên trong đã và đang làm giảm bớt tốc độ phát triển. Một nguy cơ Việt-Nam đang phải đối phó là sự phát triển thiếu quân bình giữa các vùng và giữa hai giới giầu nghèo.
Nhiều xí nghiệp này thua lỗ vì năng suất thấp, quản trị kém, và là nơi có nhiều cơ hội tham nhũng hơn những xi nghiệp tư nhân, nhưng lại được ưu tiên sử dụng tài nguyên quốc gia, cản trở sự phát triển của khu vực tư. Cơ quan Kiểm Toán Nhà nước báo cáo rắng mức lỗ tại một một số xí nghiệp quốc doanh chồng chất lên rất cao như Công Ty Giấy Việt-Nam (12.4 triệu Mỹ kim), Công Ty Thưc Phẩm Việt-Nam (11.4 triệu Mỹ kim) và Công Ty Dệt May Việt-Nam (20.5 triệu Mỹ kim).
Vào đầu thập niên 1990, Việt Nam có khoảng 6,000 xí nghiệp quốc doanh. Mỗi năm nhà nước đều đặt ra những kế hoạch để cải tổ các xí nghiệp này, nhưng không thực hiện được. Trong vài năm qua, tiến trình hội nhập kinh tế toàn cầu đã tạo áp lực rất lớn, buộc Việt-Nam phải cải tổ khu vực quốc doanh. Trên 4,500 xí nghiệp nhà nước đã được cổ phần hóa hoặc đóng cửa. Khoảng 1,500 xí nghiệp còn lại được dự trù cổ phần hoá trong 2006-07.
Tuy nhiên cho đến giữa năm 2006, chỉ có 200 xí nghiệp mà phần lớn là những công ty nhỏ, được chuẩn bị cải tổ. Một số lý do gây ra sự chậm trễ này gồm có sự chống đối của ban giám đốc và công nhân, thủ tục định giá trị tích sản của các xí nghiệp phức tạp và đòi hỏi nhiều thời gian. Bằng cách này hay cách khác, Việt-Nam phải tuân thủ luật WTO cấm bao cấp công ty quốc doanh.
Trước sau những công ty này phải phấn đấu như các công ty tư nhân để sống còn hoặc tự phá sản. Theo TS Lê Đăng Doanh, một cố vấn kinh tế cho Bộ Kế Hoạch và Đầu tư của Việt-Nam, nếu kế hoạch tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước được thực hiện nhanh chóng và sớm sủa, Việt Nam có thể phát triển ở mức 11% như Trung Quốc, ngoài ra còn tạo nhiều việc làm và sản xuất nhiều hàng để xuất cảng.
Thứ hai là sự lãng phí. Theo GS David Dapice, Việt-Nam lãng phí hàng năm khoảng một tỉ Mỹ Kim. Theo ông Việt-Nam đã đầu tư vào nền kinh tế quốc gia khoảng 5 tỉ Mỹ kim tử dầu thô, khoảng 5 tỉ Mỹ kim nữa từ kiều hối, khoảng 5 tỉ Mỹ kim từ nguồn đầu tư ngoại quốc, cộng với 2-3 tỉ Mỹ kim tiền viện trợ ODA (Official Development Assistance) để đạt được một tổng sảm phẩn nội địa (Gross Domestic Product – GDP) trị giá 55 tỉ Mỹ kim.
Như vậy tỉ lệ đầu tư / GDP là khoảng 25-30% trong năm 2006. Nếu biết đầu tư khôn ngoan, tỉ lệ tăng trưởng của Việt-Nam phải là 9-10% như ở Trung Quốc chứ không phải 7-8%. Trong thời gian 1960-1970, khi Đài Loan có lợi tức trung bình bằng Việt-Nam hiện nay, Đài Loan đạt được mức tăng trường 11% với tỉ lệ đầu tư là 25%. Như vậy Việt-Nam lãng phí 2% GDP, tương đương với 1 tỉ Mỹ kim.
Một dụ của sự lãng phí là Tổng Công Ty Công Nghiệp Tầu Thủy Việt-Nam (Vinashin) trị giá 750 triệu Mỹ Kim. Trong khi đó một xưởng đóng tầu tương tự 120,000 tấn của Ấn Độ chỉ tốn 90 triệu Mỹ kim. Thí dụ thứ hai là dự án xây cất phi trường Long Thành ở tỉnh Đồng Nai trị giá 4 tỉ Mỹ kim để thu hút 40-50 triệu hành khách. Trong khi đó phi trường Changi của Tân Gia Ba hiện đại hoá, rộng tương đương với phi trường Tân Sân Nhất, có thể đón 64 triệu khách mỗi năm.
Thứ ba là tình trạng tham nhũng. Sự kiện này nổi bật trong năm 2006 vì vụ án PMU18 (Project Management Unit No. 18) liên quan đến Bộ Giao Thông, 17 cơ quan, và 40 cá nhân bao gồm một bộ trưởng và một phụ tá bộ trưởng.
Riêng trong năm 2006, nhà nước đã điều tra khoảng 350 trường hợp liên quan đến tham nhũng về kinh tế làm thiệt hại công quỹ tổng cộng khoảng 456 triệu Mỹ kim, bao gồm khoảng 103 triệu Mỹ kim thiệt hại trực tiếp cho ngân sách quốc gia. Những vụ tham nhũng này phần đông xẩy ra tại những xí nghiệp quốc doanh lớn và những những dự án do công quỹ đài thọ.
Vụ tham nhũng nổi tiếng thứ hai liên quan đến hãng hàng không Vietnam Airlines. Theo đó Cơ quan điều tra đã phát hiện:
(1) 11 trường hợp từ trưởng phòng đến giám đốc được bổ nhiệm dù không đủ tiêu chuẩn, thiếu sót thủ tục hồ sơ, vi phạm quy trình, nguyên tắc;
(2) 16 trường hợp quỹ của Vietnam Airlines được dùng để đài thọ du học sai quy định, có con của một Bộ trưởng; con một Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; con một Phó Chủ nhiệm Ủy Ban kinh tế-Ngân sách của Quốc hội; con của Phó tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân;
(3) Mua động cơ tầm ngắn cho máy bay tầm xa; và
(4) Thiếu minh bạch về việc thuê máy bay Boeing 777, việc chi cho các đoàn có lãnh đạo tổng công ty đi công tác ở nước ngoài, việc đầu tư mua sắm thiết bị tin học...
Yếu tố thứ tư làm cản trở sự phát triển kinh tế là hạ tầng cơ sở yếu kém và thủ tục rườm rà của Việt-Nam. Hệ thống đường xá của Việt-Nam còn thiếu sót. Từ miền Bắc vào miền Nam chỉ có một con đường duy nhất dài 1,025 dặm mà phần lớn chỉ có hai lên. Xe hỏa tốc hành chạy từ Saigon ra Hà-Nội dài 1,730 km phải mất 32 giờ.
Việc cung cấp nước không được đều đặn, nhất là tại thủ đô Hà-Nội. Điện không đủ dùng và không khí ô nhiếm là một vấn đề nhức nhối ở khu vực thành thị. Trong khi đó vài trăm ngàn dân ở nông thôn đổ về thành thị mỗi năm. Ô. Christopher Wiesner, một thành viên của European Commission nhận xét rằng hạ tầng cơ sở còn cần phải cải thiện. Các cảng chuyển hàng là một nhức đầu trầm trọng. Phải cần nhiều rất nhiều thời gian để chuyển chở hàng hóa tới nơi nhận ở nước ngoài.
Ông Peter Landsiedel, Tổng Giám Đốc của công ty DHL Global Forwarding Asia Pacific nói rằng luật lệ quan thuế quá rắc rối. Việt-Nam cần phải giản dị, minh bạch hoá những luật lệ này.
8. Kết luận
Kinh tế Việt-Nam phát triển khả quan nhờ những yếu tố bên ngoài thuận lợi và chính sách vĩ mô thận trọng. Trong khi đó những trở ngại bên trong đã và đang làm giảm bớt tốc độ phát triển. Một nguy cơ Việt-Nam đang phải đối phó là sự phát triển thiếu quân bình giữa các vùng và giữa hai giới giầu nghèo.
Việc gia nhập WTO sẽ giúp kinh tế phát triển thêm nhưng đồng thời sẽ làm cho sự phân hoá xã hội ngày càng trầm trọng nếu Việt-Nam không sẵn sàng đáp ứng với những xáo trộn do sự hội nhập kinh tế toàn cầu tạo ra. Việc gia nhập WTO đánh dấu một giai đoạn đổi mới thực sự. Nó đòi hỏi Việt-Nam thực hiện những cải tổ kinh tế sâu rộng và khó khăn hơn những gì đã làm trong hai thập niên vừa qua.
Việt-Nam cần phải chú trọng hơn về sự phát triển hạ tầng cơ sở và chất lượng của sự phát triển thay vì chỉ máy móc nhắm vào những chỉ tiêu. Với đà phát triển hiện nay, Việt-Nam vẫn không có cơ may để thoát khỏi tình trạng tụt hậu và tham nhũng so với những nước láng giềng, dù mức độ phát triển của những nước này thua kém Việt-Nam.
Cải tổ chính trị, hành chánh, xã hội, và giáo dục là những biện pháp cần thiết ở giai đoạn đổi mới thực sự giúp Việt-Nam chấm dứt hai quốc nhục trên.