Ngành công nghệ thông tin Việt Nam cần nâng cao về chất lượng và số lượng

Nam Nguyên, phóng viên đài RFA

Ngành công nghệ thông tin Việt Nam đặt mục tiêu đạt doanh thu về sản phẩm phần mềm khoảng 1 tỷ 200 triệu đô la vào năm 2010. Mức tăng gấp 5 lần so với hiện nay có khả thi hay không, khi mà Việt Nam chưa giải quyết được nạn vi phạm bản quyền sao chép phần mềm bất hợp pháp. Nam Nguyên phỏng vấn Tiến Sĩ Lê Trường Tùng, Chủ Tịch Hội Tin Học TP.HCM về vấn đề này, trước hết ông cho biết.

computerIT200.jpg
Ngành công nghệ thông tin Việt Nam đặt mục tiêu đạt doanh thu về sản phẩm phần mềm khoảng 1 tỷ 200 triệu đô la vào năm 2010. AFP PHOTO

TS Lê Trường Tùng: hiện nay ở Việt Nam vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Có người cho rằng con số này là quá lớn, bởi vì cách đây 5 năm đã dự kiến doanh thu phần mềm khoảng 500 triệu đô la cho năm 2005, nhưng thực tế là đã không đạt được.

Tuy nhiên cũng có ý kiến trái ngược cho rằng con số này có thể là quá nhỏ, bởi vì doanh số triệu đô la cũng chỉ ngang bằng một công ty phần mềm cỡ lớn của Ấn Độ thôi, mà đây đang đặt vấn đề cho cả một quốc gia cho giai đoạn 5 năm tiếp theo.

Còn ý kiến cá nhân chủ quan của tôi, thì con số vừa nói có thể đạt được. Thực sự mà nói thì công nghiệp phần mềm có quy luật phát triển đặc thù, theo đấy nếu vượt qua ngưỡng tạo đà ban đầu thì nó có thể tăng trưởng với tốc độ hết sức nhanh. Điều này có thể dựa trên kinh nghiệm của những quốc gia đi trước như Ấn Độ hoặc là Trung Quốc là nước mới nhẩy vào lãnh vực phần mềm trong thời gian gần đây.

Nam Nguyên: Thưa ông thông tin cho biết là vẫn còn thiếu rất nhiều chuyên viên phần mềm, cụ thể là phải cần tới 50 ngàn người. Ông nhận định thế nào?

TS Lê Trường Tùng: Hiện nay, chiến lược phát triển công nghiệp phần mềm của Việt Nam đang đặt nặng phần gia công làm Outsourcing cho nước ngoài, trong đó có các nước ở châu Mỹ, châu Âu và Nhật bản. Và kinh nghiệm đi trước của các nước là khi làm Outsourcing thì số lượng và chất lượng nguồn nhân lực hết sức quan trọng, hơi khác so với phần mềm đóng gói.

Đúng là hiện nay Việt Nam đang hơi yếu về chất lượng và về số lượng, với dự kiến tăng trưởng như vậy cần có những giải pháp mạnh mới có thể đáp ứng được. Còn theo tốc độ tăng trưởng về số lượng đào tạo, cơ sở đào tạo như trong thời gian vừa qua thì không đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng trong thời gian tới.

Nam Nguyên: Thưa, ngay trong lúc này các giới chức có trách nhiệm đã đặt ra hướng đi để bổ khuyết cho những điều ông vừa nói hay chưa ?

TS Lê Trường Tùng: Năm 2005 vừa qua, sau này sẽ được đánh giá là năm bản lề trong việc thay đổi quan niệm về đào tạo nhân lực. Đặc biệt là nhân lực để phục vụ các ngành kinh tế cụ thể. Vấn đề này thể hiện trong những thay đổi tương đối quan trọng trong luật giáo dục đào tạo được quốc hội thông qua hồi tháng 6 năm 2005.

Nó thể hiện qua việc ban hành đề án đổi mới toàn diện hệ thống đào tạo đại học do thủ tướng phê duyệt vào tháng 11 năm 2005. Và qua chính sách làm mạnh hơn nữa vấn đề xã hội hoá, tư nhân hoá, kêu gọi tất cả các thành phần kinh tế đầu tư vào lãnh vực giáo dục đào tạo, trong đó có việc cho phép thành lập các trường đại học tư và sự kiện Việt Nam sắp tham gia vào tổ chức thương mại thế giới WTO.

Chúng tôi mong muốn rằng sắp tới sự kiện ấy sẽ mở ra được cơ hội hợp tác trên lãnh vực đào tạo giữa Việt Nam và các nước trong khu vực cũng như trên thế giới.

Nam Nguyên: Thưa ông tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ sao chép phần mềm ở Việt Nam là rất đáng báo động, thông tin nói nhiều về vấn đề này. Để tiến tới phát triển công nghiệp phần mềm có kết quả, thì có khả năng giảm thiểu nạn sao chép phần mềm như vừa nói hay không? Ðể tiến tới một tương lai tốt đẹp hơn?

TS Lê Trường Tùng: Việt Nam cũng hiểu rất rõ vấn đề này, nếu không có cải thiện về vấn đề này thì nó sẽ là một cản trở lớn trong việc phát triển và thu hút đầu tư cho ngành này. Trong kế hoạch phát triển công nghệ thông tin thời gian tới, dự kiến sẽ giảm khoảng 20% tỷ lệ vi phạm bản quyền so với con số rất cao hiện nay.

Chúng tôi hy vọng ngay trong năm 2006 này sẽ có những biện pháp kiên quyết của chính phủ, trong đấy có việc cam kết là tất cả các tổ chức của chính phủ chỉ sử dụng phần mềm có bản quyền, trong đấy có can thiệp của nhà nước, giám sát và có những biện pháp trừng phạt cần thiết đối với những tổ chức sử dụng phần mềm bất hợp pháp, trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.

Thực ra những hoạt động này cũng đã tiến hành trong năm vừa qua, trên cơ sở phối hợp giữa cơ quan chức năng với những công ty mà họ cảm thấy quyền lợi bản quyền bị vi phạm. Nhưng trong thời gian tới chúng tôi nghĩ rằng vấn đề này sẽ được đẩy mạnh và sẽ làm cương quyết hơn. Hiện nay dù muốn nói gì đi chăng nữa, thì tỷ lệ vi phạm bản quyền ở Việt Nam vẫn thuộc hàng cao nhất trên thế giới qua đánh giá của các tổ chức quốc tế.

Và trong thời gian vừa qua thì tỷ lệ này cũng không giảm được nhiều, mặc dù cái giá trị vi phạm bản quyền phần mềm lại không phải là quá cao, bởi vì ứng dụng công nghệ thông tin, ứng dụng phần mềm ở Việt Nam vẫn còn ở mức thấp. Nhưng đặt vấn đề tôn trọng bản quyền trong việc phát triển ngành phần mềm như là một ngành kinh tế, thì đây là vấn đề hết sức quan trọng.

Nếu không giải quyết vấn đề này, khi làm việc với các công ty nước ngoài, khi làm việc với các đối tác dự kiến đầu tư vào Việt Nam, điều mà chúng tôi phải trả lời, bao giờ cũng là việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của các đối tác như thế nào. Chứ không đơn thuần chỉ dưới dạng những phần mềm hiện nay sử dụng rất thông dụng như là hệ điều hành….phải làm thế nào để giảm được tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm.

Nam Nguyên: Cảm ơn TS Lê Trường Tùng đã trả lời đài RFA.