Nam Nguyên, phóng viên đài RFA
Đài Loan vừa quyết định hoàn trả 21 tấn trà Ô Long nhập khẩu từ Việt Nam, do phát hiện có dư lượng thuốc trừ sâu bị cấm. Sự kiện này xảy ra trong bối cảnh nhiều mặt hàng Việt Nam vướng an toàn vệ sinh thực phẩm ở Hoa Kỳ, Nhật Bản và một số nước khác. Mục đọc báo trên mạng hôm nay, chúng tôi có sự tham gia của ông Nguyễn Kim Phong, Chủ Tịch Hiệp Hội Chè Việt Nam trụ sở tại Hà Nội.

Thời Báo kinh Tế Việt Nam, bản tin tiếng Anh đưa lên mạng ngày 2/8/2007 trích thuật nguồn tin thông tấn xã CNA của Đài Loan, theo đó Cục Vệ Sinh Thực Phẩm trực thuộc Bộ Y Tế Đài Loan đã phát hiện dư lượng thuốc trừ sâu dicofol trong lô hàng 21 tấnTrà Ô Long Việt Nam nhập khẩu vào Đài Loan ngày 10/7.
Quyết định trả lô trà vừa nói về Việt Nam được ban hành ngày 27/7. Cùng ngày hãng CNA trích phát biểu nữ nghị sĩ Đài Loan Lai Shin Yuan đề nghị cấm nhập khẩu mọi loại trà Việt Nam, cho đến khi phía Việt Nam khắc phục được vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm trong sản phẩm trà xuất khẩu.
Việt Nam có diện tích cây chè khoảng 130 ngàn hectares rải rác ở 34 tỉnh toàn quốc, kim ngạch xuất khẩu 2007 dự kiến khoảng 200 triệu đô la. Thông tin từ Đài Loan đưa tới âu lo cho 1 triệu người dân Việt Nam đang lao động trong ngành chè.
Trong chương trình hôm nay chúng tôi trình bày cuộc phỏng vấn ông Nguyễn Kim Phong Chủ Tịch Hiệp Hội Chè Việt Nam chung quanh thông tin trà Việt Nam bị Đài Loan từ chối. Cuộc phỏng vấn được thực hiện vào chiều tối 2/8 theo giờ Việt Nam. Từ Hà Nội ông Nguyễn Kim Phong phát biểu:
Ông Nguyễn Kim Phong: Chúng tôi chưa nhận được tin tức nào cả và chúng tôi đã điện đi tất cả các chi hội trà trong nước Việt Nam nhưng chưa có nơi nào hồi đáp (cho đến tối 2/8/2007).
Đặc biệt ở phía Bắc, công ty chè Thái Bình có quá trình sản xuất chè Ô Long từ 7 năm nay, cho biết là chuyến hàng mới xuất sang Đài Loan đã được thanh toán không xảy ra chuyện gì. Bây giờ chỉ còn quan ngại ở Lâm Đồng, nơi có năm, sáu người Đài Loan sang sản xuất chè ở đó, chi hội trưởng chè Lâm Đồng tìm hiểu suốt một ngày chưa lần ra manh mối.
Nam Nguyên: Thưa ông chất Dicofol mà phía Đài Loan phát hiện trong 21 tấn trà phải trả về có nằm trong danh mục thuộc bảo vệ thực vật mà người làm trà sử dụng?
Ông Nguyễn Kim Phong: Không, trong số 12 loại thuốc chính phủ chúng tôi cho phép liên quan tới cây chè thì không có chất đó. Nhưng tôi lo ngại nguồn nhập lậu theo đường biên giới vào, chúng sẽ điều tra chuyện này.
Nam Nguyên: Thưa ông thông tin nói là Đài Loan nhập rất nhiều trà từ Việt Nam, chiếm tỷ trọng rất lớn ?
Ông Nguyễn Kim Phong: Hiện nay mỗi năm Đài Loan nhập từ Việt Nam khoảng 18 ngàn tấn trà các loại như trà xanh, trà đen, ô long, trà ướp nhài, trị giá 16 triệu đô la. Đài Loan là một trong 10 nước nhập khẩu nhiều trà Việt Nam. Giá trà Việt Nam thấp hơn nhiều so với thị trường Đài Loan. Chúng tin là đã làm rất tốt, và sẽ rất cẩn thận chuyện này.
Nam Nguyên: Thông tin đề cập tới trà Ô Long, vậy trà này của Việt Nam bán cho Đài Loan với giá cả thế nào.
Ông Nguyễn Kim Phong: Rất rẻ, chúng tôi xuất với giá 6 đô la đến 8 đô la/kg là cùng. Thực ra bên đó người ta nhập nguyên liệu về làm, Việt Nam chỉ xuất trà ô long dưới dạng nguyên liệu thôi. Người Đài Loan chế biến lại bán ra với giá rất cao, có thể lên tới trên 100 đô la/kg !
Nam Nguyên: Như thế có nghi ngờ phía Đài Loan lập rào cản kỹ thuật với trà Việt Nam hay không. Nhất là người trồng chè bên Đài Loan họ đòi cấm nhập khẩu trà Việt Nam.
Ông Nguyễn Kim Phong: Đến bây giờ thì chưa thể khẳng định điều này. Khi chúng tôi biết được thông tin chính thức về 21 tấn chè đó, chúng tôi sẽ xem xét lại chuyện này. Nhưng cũng không loại trừ vấn đề nảy sinh trong kinh doanh nội bộ giữa các thương nhân Đài Loan với nhau, chứ không phải sự kinh doanh với Việt Nam. Chúng tôi bán giá thấp hơn của họ nhiều, tôi cho rằng có mâu thuẫn về lợi nhuận trong nội bộ họ và có thể ảnh hưởng đến sự kiện vừa rồi.
Theo tôi biết mới đây, những người nhập trà Việt Nam vào đã bị một số người Đài Loan phản đối. Họ e ngại rằng trà Việt Nam sẽ làm giảm giá trà của họ xuống.
Mặt hàng này đối với Việt Nam còn là mới, nên chúng tôi sẽ phấn đấu để mở rộng thị trường sang các nước như là Mỹ chẳng hạn. Tôi tin rằng trà đặc sản Việt Nam như ô long Mẫu Sơn, ô long Cầu Đất, ô long Cầu Tre sẽ có giá trị rất khá.
Nam Nguyên: Ông vừa đề cập đến thị trường Mỹ, vậy thì sẽ xuất trà thô, nguyên liệu hay đóng gói thành phẩm có thương hiệu?
Ông Nguyễn Kim Phong: Chúng tôi đã có thương hiệu quốc gia Việt Nam, những sản phẩm đóng gói dưới thương hiệu quốc gia là ấn chỉ đảm bảo trà Việt Nam đúng tiêu chuẩn quốc tế, trà vì sức khoẻ con người. Những công ty đủ tiêu chuẩn mới được phép sử dụng thương hiệu quốc gia. Chúng tôi đã giới thiệu thương hiệu này với hiệp hội chè của Mỹ.
Nam Nguyên: Thưa ông, những đại gia ngành trà trên thế giới đã có quá trình cả thế kỷ, liệu Việt Nam khi xuất thành phẩm có thương hiệu có khả năng cạnh tranh hay không?
Ông Nguyễn Kim Phong: Chúng tôi cố gắng, dù các đại gia thế giới đã có thương hiệu vài chục năm hay cả trăm năm. Trà Việt Nam sẽ phải cần thời gian để người tiêu dùng biết tới và ưa thích, trà Việt Nam phải giữ được sự ổn định về chất lượng. Bây giờ một mặt vẫn xuất theo dạng nguyên liệu thô, từnmg bước một xuất trà thành phẩm.
Nam Nguyên: Thưa ông có thể đưa ra sự so sánh giá cả đối với xuất trà nguyên liệu và trà thành phẩm?
Ông Nguyễn Kim Phong: Tại thị trường Anh, trà nguyên liệu Việt Nam được người Anh chế biến và đóng gói, giá bán gấp 5 tới 6 lần. Nghĩa là chúng tôi xuất nguyên liệu 1 đô la rưỡi, người Anh sau khi chế biến đóng gói dưới thương hiệu của họ và bán với giá 8 đô la rưỡi /kg
Nam Nguyên: Chương trình trà sạch trà an toàn ở Việt Nam được tiến hành đến đâu rồi, thưa ông?
Ông Nguyễn Kim Phong: Sau tuần lễ trà ở Lâm Đồng và hội nghị ở đó, tất cả những người làm trà đã thống nhất quyết tâm triển khai tích cực tại các vùng chè ở Việt Nam. Cộng với sự quan tâm của Nhà nước, chúng tôi sẽ có những tiêu chí cụ thể để trà lưu hành được đảm bảo. Những vùng chè, doanh nghiệp nào làm tốt sẽ được hỗ trợ, ngược lại những nơi làm không tốt sẽ chịu nhiều biện pháp mà có thể dẫn tới hậu quả mất khả năng tồn tại.
Nam Nguyên: Như vậy có qui định hướng dẫn việc sử dụng chất bảo vệ thực vật hay không?
Ông Nguyễn Kim Phong: Vấn đề đó bây giờ trở thành qui trình và qui định của Nhà nước với tất cả ngành trà. Chúng tôi đang tổ chức các phòng kiểm nghiệm ở các khu vực để giám sát chuyện này.
Các đội kiểm tra sẽ hoạt động mạnh, đặc biệt hình thành đội chuyên môn phun thuốc trừ sâu với các loại thuốc thích hợp được phép sử dụng cho cây chè. Tôi nghĩ đây là biện pháp tích cực của các vùng chè, và hy vọng điều này sẽ giảm tình trạng sử dụng thuốc nhập lậu và cải thiện tình trạng. Chúng tôi đang cố gắng bằng mọi cách để người làm chè phải có cuộc sống về chè.
Nam Nguyên: Cảm ơn ông Nguyễn Kim Phong chủ tịch hiệp hội chè Việt Nam về các thông tin của ông.
Trở lại bản tin của hãng CNA mà Thời Báo Kinh Tế Việt Nam trích đăng. Giới chức Cục Vệ Sinh Thực Phẩm Đài Loan cho biết, Trà Ô Long phần lớn do các nông gia Đài Loan canh tác tại Việt Nam.
Sản lượng Trà Ô Long chiếm tỷ lệ 73% tổng lượng trà mà Đài Loan nhập khẩu từ nước ngoài. Phía Đài Loan xác định là từ năm 2005 cho tới tháng 5/2007 Cơ Quan Vệ Sinh Thực Phẩm Đài Loan kiểm tra mặt hàng trà Việt Nam nhưng không phát hiện vi phạm qui định.
Vẫn theo tin này cơ quan hữu trách Đài Loan đã từng thông báo cho chính quyền Việt Nam, là cần kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng thuốc trừ sâu trong nông sản.