Tự do Ngoại thương bị Đe dọa

Nguyễn Xuân Nghĩa & Việt Long, RFA

Cách đây một tuần, Hiệp định Thương mại Song phương giữa Hoa Kỳ và Nam Hàn kịp được ký kết, nhưng còn có thể bị Quốc hội Mỹ bác bỏ trong tương lai. Đồng thời, Bộ Thương mại Hoa Kỳ cũng vừa đề nghị trừng phạt Trung Quốc việc phá giá và trợ cấp xuất khẩu giấy vào thị trường Mỹ.

Các biến cố trên làm thế giới nói tới xu hướng bảo hộ mậu dịch rất mạnh trên chính trường Hoa Kỳ với hậu quả tai hại cho luồng trao đổi ngoại thương trên thế giới. Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu về xu hướng này qua phần trao đổi cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa do Việt Long thực hiện sau đây.

Việt Long: Thưa ông Nguyễn Xuân Nghĩa, sau 10 tháng thương thuyết, Hiệp định Thương mại Song phương giữa Hoa Kỳ và Nam Hàn cuối cùng đã được hai bên ký kết ngày mùng một tháng này nhưng dư luận quốc tế vẫn cho rằng văn kiện này có thể sẽ bị Quốc hội Mỹ bác bỏ vì xu hướng bảo hộ mậu dịch rất mạnh trong Quốc hội khoá 110 của Hoa Kỳ.

Trong chương trình tuần này, chúng tôi xin đề nghị là ta sẽ cùng tìm hiểu về xu hướng ấy, với những hậu quả có thể xảy ra cho Việt Nam và các nước đối tác với kinh tế Mỹ. Vì vậy, câu hỏi đầu tiên của chúng tôi là ta sẽ tìm hiểu sơ lược về bối cảnh giao thương giữa Hàn Quốc và Hoa Kỳ trước khi phân tách xu hướng bảo hộ mậu dịch tại Mỹ.

Nguyễn Xuân Nghĩa: Trước khi nói đến Hiệp định Thương mại Song phương Mỹ-Hàn, ta sẽ phải nhắc tới một yếu tố đặc thù của Hoa Kỳ là đạo luật rộng quyền thương thảo mậu dịch người Mỹ gọi là "trade promotion authority", hoặc như trước đây, là "fast track". Đạo luật này đã được Quốc hội Mỹ thông qua năm 2002 và có hiệu lực năm năm, đến cuối tháng Sáu năm nay.

Theo đạo luật tôi dịch nôm na là rộng quyền thương thảo thì Đại diện Thương mại thuộc Hành pháp Mỹ có toàn quyền thương thảo các thỏa ước cho tới khi hoàn thành Hiệp định. Sau đó, bản Hiệp định được chuyển qua Lập pháp phê chuẩn trong thời hạn 90 ngày, với tinh thần gọi là "trọn gói", tức là bác bỏ hay chấp thuận toàn bộ văn kiện, chứ không đi vào việc cứu xét từng điều khoản. Đạo luật ấy vì vậy cho phép Hoa Kỳ mở rộng quan hệ mậu dịch song phương với các nước theo thủ tục ngắn gọn...

Trước đấy, Chính quyền của Tổng thống Bill Clinton không vận động nổi đạo luật này dù đảng Dân chủ của ông khi đó đang chiếm đa số trong Quốc hội. Năm 2002, Chính quyền của Tổng thống George Bush đã phải thỏa hiệp qua biện pháp bảo hộ ngành thép của Mỹ mới vận động được Quốc hội thông qua đạo luật rộng quyền mậu dịch trong thời hạn năm năm.

Việt Long: Và thời hạn năm năm ấy sẽ kết thúc vào ngày 30 tháng Sáu này phải không?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Thưa vâng, chính vì vậy mà phía Hoa Kỳ đã phải ráo riết hoàn tất bản Hiệp định Mỹ-Hàn hầu Tổng thống Bush kịp thời chuyển qua Quốc hội nội trong 90 ngày trước khi đạo luật kia đáo hạn. Nhờ chênh lệch giờ giấc mà hai Chính phủ Hoa Kỳ và Nam Hàn đã đạt thỏa thuận có 25 phút trước khi ông Bush kịp ký kết văn kiện để xin Quốc hội Mỹ phê chuẩn.

Đây là văn kiện quan trọng vì, thứ nhất kích thước của bài toán mậu dịch Hoa Kỳ và, thứ hai vì tính chất trắc nghiệm phản ứng của Quốc hội khoá 110 vừa được dân Mỹ bầu lên tháng 11 năm ngoái. Thế giới và cả Việt Nam nên theo dõi văn kiện này vì hai lý do ấy.

Việt Long: Lý do thứ nhất là vì kích thước của bài toán mậu dịch, thế thì trị giá của văn kiện này sẽ là bao nhiêu tiền mà quan trọng như vậy?

Nguyễn Xuân Nghĩa: So sánh tương quan thì Mỹ là nền kinh tế lớn nhất thế giới, Nam Hàn đứng hàng thứ 11, hai bên buôn bán với nhau chừng gần 80 tỷ một năm, gấp 10 so với Việt Nam, và Hiệp định Song phương Mỹ-Hàn quy định hai nước sẽ hạ thấp hàng rào hải quan chừng 95% trong thời hạn ba năm, với kết quả có thể là nâng cao khối lượng buôn bán chừng 25% một năm, chừng hai chục tỷ Mỹ kim.

Vì hai nền kinh tế không có tính chất tương tranh, tức là trực tiếp cạnh tranh với nhau, nên về dài thì đà gia tăng trao đổi ấy có lợi cho cả hai. Nếu so sánh thì đây cũng là Hiệp định Thương mại có ảnh hưởng lớn nhất cho kinh tế Mỹ kể từ bản Thỏa ước Tự do Mậu dịch Bắc-Mỹ NAFTA mà Hoa Kỳ đã ký với Canada và Mexico năm 1993. Tuy nhiên, tôi thiển nghĩ rằng văn kiện này sẽ gặp nhiều trở ngại và khó được phê chuẩn vì yếu tố thứ hai, vì trào lưu bảo hộ mậu dịch trong Quốc hội Mỹ.

Phản ứng của Quốc hội Mỹ

Việt Long: Chúng ta bắt đầu tìm hiểu yếu tố thứ hai đó. Vì sao ông cho là Quốc hội Mỹ có thể bác bỏ bản Hiệp định này?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Không chỉ bác bỏ Hiệp định Thương mại Mỹ-Hàn mà còn có thể xét lại hàng loạt các hiệp định thương mại mà Chính quyền Bush đã thông qua với nhiều quốc gia khác và sẽ còn gây sức ép rất mạnh với các nước đang đạt thặng dư mậu dịch với Mỹ, đứng đầu là Trung Quốc với mức xuất siêu là hơn 230 tỷ Mỹ kim.

Lý do ở đây, như chúng ta đã nhiều lần cảnh báo trên diễn đàn này, là một số thành phần dân Mỹ lại không thấy lợi lộc gia tăng nhờ tự do mậu dịch, hoặc ít ra là không gia tăng nhanh và nhiều như thành phần chủ đầu tư Mỹ hoặc như công nhân hay nông gia của các nước nghèo. Họ hoài nghi trào lưu toàn cầu hoá và còn chống lại nguyên tắc tự do mậu dịch nên dùng lá phiếu tác động vào chính trường, vào Quốc hội.

Quốc hội khoá 110 vừa nhóm họp vào đầu năm nay tại Hoa Kỳ có khuynh hướng bảo hộ mậu dịch rõ rệt và sẽ gây trở ngại cho Hành pháp Mỹ đang bị suy yếu vì hồ sơ Iraq, đồng thời có thể không cho tái tục đạo luật rộng quyền ngoại thương kể từ mùng một tháng Bảy này trở đi.

Việt Long: Có phải là vì đảng Dân chủ vừa chiếm đa số tại cả hai viện Quốc hội Mỹ hay không? Nguyễn Xuân Nghĩa: Thưa chỉ một phần thôi. Nói chung thì chừng hai phần ba giới dân cử bên đảng Dân chủ và một phần ba bên đảng Cộng hoà ngả theo xu hướng bảo hộ mậu dịch mà họ gọi là "mậu dịch công bằng". Khi đảng Cộng hoà bị thất thế trong cuộc bầu cử năm ngoái thì họ không dám lấy rủi ro làm mất lòng quần chúng trong cuộc bầu cử vào năm 2008 tới đây.

Chỉ còn Chính quyền Bush là cố vớt vát tinh thần tự do mậu dịch nhưng bị suy yếu nặng vì vụ Iraq, nên ta có thể nói là xu hướng bảo hộ mậu dịch đang là đặc tính "lưỡng đảng", có sự đồng thuận của cả hai đảng Dân chủ và Cộng hoà. Họ sẽ lấy đủ mọi lý do phản bác hay cản trở những cam kết đã có của Chính quyền ông Bush.

Trở lại chuyện cụ thể là Hiệp định Mỹ-Hàn mình vừa đề cập tới thì nếu nông gia Mỹ có lợi nhờ sẽ bán thịt qua Hàn Quốc thì công nhân kỹ nghệ xe hơi sẽ lại kịch liệt chống vì một năm Mỹ bán có chừng 4.000 xe hơi qua Nam Hàn trong khi nhập khẩu 800 ngàn xe Hàn Quốc vào Mỹ.

Ba đại gia về xe hơi của Mỹ tại Detroit của bang Michigan đều đang bị điêu đứng vì không thể cạnh tranh nổi với xe ngoại quốc, kể cả xe Nhật hay Hàn Quốc ráp chế tại Mỹ, và họ đòi chính quyền phải bảo vệ. Bên kia, các công đoàn hay nông gia Hàn Quốc cũng muốn chống vì e sợ sự cạnh tranh của hàng Mỹ. Cho nên lực cản hiện đang mạnh hơn lực đẩy và điều này không chỉ giới hạn trong mậu dịch Mỹ Hàn mà mở rộng qua nhiều ngành khác, với nhiều xứ khác nữa....

Chi tiết đáng chú ý là với Hiệp định Thương mại Mỹ-Hàn, nhiều giới chức dân cử Mỹ đã đả kích hàng rào bảo hộ mậu dịch của Nam Hàn với ngôn ngữ thời Chiến tranh lạnh, khi gọi đó là "bức màn sắt"!

Việt Long: Chúng ta bắt đầu bước qua phần liên hệ đến Việt Nam. Theo sự phân tách của ông, thì liệu Việt Nam có bị ảnh hưởng bất lợi gì từ trào lưu bảo hộ tại Mỹ không, sau khi ký kết Hiệp định Thương mại và có quy chế mậu dịch bình thường và vĩnh viễn với Hoa Kỳ và trở thành hội viên thực thụ của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO từ đầu năm nay?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Tôi xin có nhận xét tổng quát trước rồi chuyện Mỹ sau. Thứ nhất, trào lưu bảo hộ mậu dịch hoặc chặn đà bành trướng của toàn cầu hóa không là hiện tượng đặc thù của Mỹ mà đang là xu hướng phổ biến trong các nước công nghiệp tiên tiến, kể cả Liên hiệp Âu châu hay Nhật Bản và gặp phản ứng mạnh từ các nước tân hưng, mới phát triển lên hàng ngũ công nghiệp, như trường hợp Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil hay cả Nam Hàn.

Yếu tố ấy mới giải thích vì sao vòng đàm phán Doha về tự do mậu dịch mới tan vỡ và khó có thể vớt vát nổi. Thượng đỉnh G-8 và Hội nghị thường niên của Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF và Ngân hàng Thế giới vào tuần này có thể cho chúng ta cơ hội kiểm chứng điều ấy.

Thứ hai, và ta đi dần vào sự ngộ nhận tai hại từ phía Việt Nam, khi một cơ chế quốc tế và đa phương như WTO bị bế tắc vì vòng đàm phán Doha như diễn đàn này đã nói nhiều lần, thì các nước đều tìm thỏa thuận song phương với tương quan mạnh hay yếu của từng nước. Điều này bất lợi cho các nước nghèo vì họ mất một diễn đàn có thế mạnh là WTO.

Thứ ba, và ngược với nhận xét của một vị dân cử Mỹ đối với Việt Nam, quan hệ đôi bên không phải là một cuộc hôn nhân vĩnh viễn tốt đẹp để Việt Nam cứ tưởng rằng từ khi đã qua cửa ải WTO và PNTR với Mỹ thì mình muốn làm gì cũng được, kể cả vi phạm nhân quyền hay nhục mạ vị Đại sứ Mỹ và các Dân biểu Hoa Kỳ đang công du tại Việt Nam.

Ảnh hưởng đối với Việt Nam

Việt Long: Một cách cụ thể thì những rủi ro gì có thể xảy ra cho nền kinh tế Việt Nam?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Tôi xin lấy một ví dụ cụ thể. Hiệp định Thương mại Song phương giữa Hoa Kỳ và Peru có thể bị cản trở vì Dân biểu Dân chủ nổi tiếng phản chiến là ông John Murtha đã tìm ra yếu tố bất ngờ là vì nền an ninh của Mỹ.

Lý do là một doanh nghiệp của xứ UAE, Liên hiệp các Tiểu vương Hồi giáo, có đầu tư vào Peru, nếu doanh nghiệp Dubai Ports World này từ đó đầu tư vào Mỹ thì có thể đe doạ an ninh của các thương cảng Hoa Kỳ.

Giới quan sát cho rằng đây chỉ là lý cớ chính trị trong nội tình Hoa Kỳ nhưng vẫn gây thiệt hại cho Peru và xứ UAE, vốn là hai đồng minh của Hoa Kỳ tại Nam Mỹ và Trung Đông.

Vốn đang mở mang quan hệ bình thường với Hoa Kỳ, Việt Nam không phải là không có vấn đề tồn đọng trong mối giao thương với thị trường Mỹ. Bây giờ khi tự gây thêm vấn đề về tự do và nhân quyền với chính người dân của mình, lãnh đạo Việt Nam mặc nhiên tạo ra nền tảng đồng thuận giữa xu hướng lý tưởng và đòi hỏi dân chủ với xu hướng bảo hộ mậu dịch trong cả hai đảng Dân chủ và Cộng hoà.

Các xu hướng này sẽ nêu vấn đề ngay tại Quốc hội và gây sức ép với bộ Ngoại giao và Tòa Đại sứ Mỹ tại Hà Nội để đòi hỏi nhiều điều kiện phụ trội khác như đã từng thấy trong quan hệ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Mà Việt Nam chẳng có cái thế chính trị hay cái lực kinh tế như Trung Quốc.

Việc đàn áp người dân chủ sẽ dẫn tới nhiều thiệt hại cho dân chúng Việt Nam trong mối giao dịch với Hoa Kỳ. Nông gia, ngư dân và công nhân hay ngành dệt sợi, bán tôm cá, giày dép hay vật dụng điện tử Việt Nam sẽ bị thiệt thòi lớn vì lãnh đạo chính trị đã gây ra chuyện kỳ cục ấy.

Đây không chỉ là một sai lầm lớn về đạo đức dân tộc mà còn là một dại dột nặng về chính trị và những kẻ hữu trách cần phải bị trừng phạt. Nên giải oan cho cha Lý và xin lỗi những người bị xúc phạm chứ không phải cứ chửi Mỹ là xen lấn vào chuyện nội bộ Việt Nam mà đã là xong!