Hôm qua Thứ Hai, thị trường chứng khoán Tokyo đã lại sụt giá, liên tục bảy ngày. Nguyên do là mối lo về dầu khí, khi giá dầu trên thị trường New York cho hạn kỳ tháng 11 đã vượt 55 đô la một thùng. Diễn đàn Kinh tế xin trao đổi với kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa về nguy cơ của một cơn chấn động dầu khí đối với thế giới, đặc biệt với kinh tế Á châu. Mời quý thính giả nghe Việt-Long và nhà kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa.
Hỏi: Thưa ông, tuần qua giá dầu thô tại thị trường New York đã vượt 55 đô la một thùng cho hạn kỳ tháng 11, vậy liệu kinh tế thế giới có bị một cơn chấn động dầu hỏa chăng?
Thực ra, khó ai biết trước được tương lai, nhưng trước mắt, chưa thấy yếu tố nào có thể làm nới giá dầu từ nay đến cuối năm, trong khi những rủi ro tăng giá lại rất nhiều. Vì vậy, càng ngày người ta càng thấy xác suất cao của một cơn chấn động dầu khí.
Hỏi: Nhưng vừa qua, Bộ trưởng Xăng dầu và Khoáng sản của Ả Rập Xê Út có cho biết là thế giới không thiếu dầu và xứ này sẽ bơm thêm dầu để tăng số cung. Đó không phải là một tin lạc quan hay sao?
Thưa vâng, Ả Rập Xê Út có trữ lượng lớn nhất và là nước bán dầu nhiều nhất thế giới nên lời tuyên bố hôm mùng 10 vừa qua của Bộ trưởng Al al-Nami trên nguyên tắc phải giúp cho dầu thô đứng giá. Thực tế lại không vậy, ngay sau khi ông al-Nami tuyên bố như thế tại Abu Dhabi, dầu thô lại tăng giá, lên tới gần 54 đồng. Vì thị trường kết luận là lời phát biểu đó chỉ nhằm trấn an, chứ với sản lượng một ngày đã lên tới 9 triệu rưởi thùng, cao hơn hạn ngạch 8 triệu 45 của OPEC, thì Á Rập Xê-Út khó lòng bơm thêm dầu. Giờ có vét sạch dự trữ để bán thêm triệu rưởi thùng một ngày thì cũng chưa thấm vào đâu. Khi quốc gia xuất khẩu số một lại nói phóng đại để trấn an thì tình hình quả là nguy kịch. Thị trường kết luận vậy nên giá dầu đã không giảm mà còn tăng mạnh. Vắn tắt thì số cung đã lên tới gần tối đa, mà thế giới còn biết bao rủi ro khác có thể đẩy giá lên cao hơn.
Hỏi: Ông thấy những rủi ro đó là gì?
Đầu tiên là lễ Ramadan của đạo Hồi, khởi sự từ hôm 14 và kéo dài tới tháng sau, có thể là cơ hội cho quân khủng bố ra tay. Kế đó là tình hình Iraq, từ nay đến cuộc bầu cử tháng Giêng tới các phe lâm chiến và cả các nhóm khủng bố xâm nhập từ ngoài sẽ gia tăng xung đột để phá hoại bầu cử hoặc giành thế chính trị cho tương lai. Thứ nữa, nội loạn tại Nigeria chưa êm hẳn; chính quyền Liên bang Nga nhất quyết tiêu diệt tập đoàn Yuko, số một về xuất khẩu dầu khí của Nga; khủng bố còn có thể tấn công Ả Rập Xê út để xua đuổi các chuyên gia dầu khí Tây phương và làm suy yếu chính quyền Hoàng gia xứ này. Đã vậy, hôm mùng 10, Venezuela lại đòi các tập đoàn dầu khí Tây phương bơm dầu tại vùng Oricono Tar Belt phải trả hoa hồng khai thác cao gấp bội, từ 1% vọt lên 16,6%. Cơ sở dầu khí xứ này vốn đã lụn bại từ cả chục năm vì thiếu đầu tư nên khó gia tăng sản lượng, nay lại đơn phương tăng tiền hoa hồng thì phí tổn đó sẽ dồn vào giá bán. Nhiều xứ khác sẽ lại học tấm gương xé bỏ hợp đồng của chính quyền Hugo Chavez và giá dầu vì vậy sẽ còn tăng. Trong khi đó, như ta đang thấy, số cầu trên thế giới vẫn chưa giảm.
Hỏi: Nói tóm tắt thì với nền tảng sản xuất hiện nay, các nước bán dầu chưa thể lập tức tăng số cung để đáp ứng số cầu, mà rủi ro về an ninh lại vẫn chưa có hướng sút giảm?
Các trung tâm nghiên cứu về thị trường dầu thô cho rằng tình hình cung cầu rất căng ngày nay khiến giá dầu có thể xê dịch trong biên độ 30-35 đồng một thùng. Qua mùa lạnh ở Bắc bán cầu, là nơi cho nhiều nước tiêu thụ nhất, số cầu sẽ lại còn tăng. Giữa hoàn cảnh căng thẳng cung cầu đó, yếu tố bất ổn dẫn tới phụ phí về rủi ro, từ 10 đến 15 đô la một thùng; sau cùng, tâm lý đầu cơ và trục lợi cũng tác động. Giá dầu vì vậy có thể lên tới 60 và nếu cứ ở trên đỉnh cao 55-60 như vậy suốt vài tháng, ta có thể gặp chấn động dầu khí.
Hỏi: Bây giờ, sau những phần trình bày về bối cảnh kinh, bước qua phần tìm hiểu về hậu quả, ông cho rằng kinh tế thế giới sẽ ra sao?
Trong năm trận suy trầm kinh tế toàn cầu vừa qua, lần nào cũng có hiệu ứng của nạn dầu thô tăng giá. Gần đây, chỉ có Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF còn đưa ra trong báo cáo mới nhất dự đoán lạc quan về triển vọng kinh tế năm 2005, với tốc độ tăng trưởng bình quân của thế giới là 4,5%, so với 5% dự đoán cho năm 2004 này, chỉ giảm có 0,50%. Hình như đó là thói quen của IMF chứ nhiều nơi khác đã đánh sụt đà tăng trưởng dự báo cho năm tới, ở khoảng 3,5 đến 3,6% thay vì xê xích trong khoảng 4% như họ ước tính cách đây vài tháng. Theo lối tính của IMF, khi tốc độ tăng trưởng bình quân của toàn cầu sụt tới mức 2,5% một năm thì kinh tế thế giới bị gọi là suy trầm. Năm tới, thế giới có thể đi vào vùng nguy kịch nếu tốc độ tăng trưởng xê dịch giữa 2,5 và 3,5%. Đó là về đại thể, chứ tình hình mỗi khu vực hay mỗi nước lại một khác, nhất là ở Đông Á.
Hỏi: Tập trung vào kinh tế Đông Á thì một cơn chấn động dầu khí sẽ gây hậu quả gì?
Nói về Đông Á, có lẽ phải trước hết nêu ra một số đặc điểm khiến chấn động dầu khí sẽ tác hại mạnh hơn là tại Hoa Kỳ hay Âu châu, vốn dĩ đã là hai khu vực có hiệu năng tiêu thụ cao hơn. Đầu tiên là thất quân bình đáng ngại về cán cân vãng lai, tức là chi thu ngoại tệ. Đông Á thặng dư cán cân vãng lai, trong khi Hoa Kỳ, Anh và Úc lại bị thâm hụt cao gần gấp đôi số thặng dư ấy. Thất quân bình là tình trạng nghiêng ngả và nghiêng quá thì có thể lật, chấn động dầu khí có thể châm ngòi cho sự lật đổ ấy. Nạn thất quân bình này khởi sự sau vụ khủng hoảng Đông Á 97-98 khiến các nước phải phá giá và Hoa Kỳ hạ lãi suất để cứu vãn. Trong giai đoạn hậu khủng hoảng ấy, giá dầu thô cũng đã giảm một cách đáng kể, ở khoảng 20 đô la, nhờ đó kinh tế Đông Á hồi phục rất nhanh.
Hỏi: Nhưng có phải vì hạ lãi súât mà Hoa Kỳ bị suy trầm vào mấy năm sau đó không?
Một phần vì lãi suất hạ từ các năm 98-99 mà Mỹ bị trái bóng đầu tư trong các ngành công nghệ cao; trái bóng đó bị bể năm 2000 làm kinh tế Mỹ bị suy trầm năm 2001, cùng lúc lại bị khủng bố. Các biến cố ấy khiến Mỹ lại hạ lãi suất liên tục, và nạn bội chi ngân sách lẫn nhập siêu quá lớn khiến tiền Mỹ sụt giá, thành rất rẻ từ đầu năm 2002. Ảnh hưởng của một chuỗi biến chuyển ấy là Đông Á đã quen với ba yếu tố là dầu thô và đô la xuống giá cùng với lãi suất rất hạ tại Mỹ. Tiền và xăng dầu đều rẻ thì cứ đi vay và cứ đầu tư nên trái bóng đầu tư và đầu cơ đã xuất hiện tại Đông Á, nhất là ở Trung Quốc. Kinh tế xứ này hút dầu như rồng cuốn, vượt Nhật thành nước nhập khẩu thứ nhì thế giới và đóng góp tới một phần ba vào đà gia tăng tiêu thụ dầu khí thế giới và đấy cũng là yếu tố đẩy mạnh số cầu ngày nay. Bây giờ, khi bong bóng đầu tư đã căng phồng và đà tăng trưởng có thể gây lạm phát, Trung Quốc phải hãm đà tăng trưởng. Đúng lúc ấy, Mỹ đã lại nâng lãi suất, tiền Mỹ giảm đà mất giá và dầu thô tăng giá. Đấy là bối cảnh của kinh tế năm tới.
Hỏi: Như vậy, trong bối cảnh đó và với hiệu ứng của giá dầu gia tăng thì liệu kinh tế Đông Á có chắc chắn bị suy trầm vào năm tới không?
Trong hiện tại, với giá dầu bắt đầu vượt 55 đồng một thùng, tốc độ tăng trưởng của kinh tế Đông Á nói chung trong năm 2005 có thể giảm và chỉ còn chừng hơn 5% thay vì gần 6% như dự đoán trước đây. Nếu giá dầu vẫn giữ nguyên ở mức cao hiện nay thì từ đầu năm tới, ta đã thấy được hậu quả. Nếu giá dầu lại còn tăng và kéo dài thêm nhiều tháng nữa, chấn động dầu khí có thể bùng nổ. Kinh tế Hoa Lục bị hoạ lớn và các lân bang bị lây. Điều làm cho các nhà kinh tế của thế giới còn thắc mắc là tình hình vật giá sẽ xoay chuyển thế nào với nạn giá dầu đang tăng như hiện nay.
Đi vào chi tiết thì yếu tố phân định ở đây là tùy từng quốc gia, như có dầu hỏa hay chăng, nếu không có thì mức lệ thuộc vào dầu hỏa của cơ cấu sản xuất cao hay thấp? Mức lệ thuộc này có thể đo lường ở một hệ số là tiêu thụ một thùng dầu thì sản xuất ra bao nhiêu tài sản, ví dụ như chia tổng sản lượng GDP cho số dầu tiêu thụ suốt cả năm đó. Nếu xét theo tiêu chuẩn hiệu năng tiêu thụ dầu thì tại Đông Á, Nhật có hiệu năng cao nhất, gấp ba Trung Quốc và Nam Hàn, gấp năm Thái Lan chẳng hạn... Chấn động mà xảy ra thì ngoài Indonesia và Malaysia, có lẽ các xứ nói trên đều bị thiệt hại, kể cả Việt Nam.
Hỏi: Vâng, thì vấn đề cuối để thảo luận hôm nay là hoàn cảnh của Việt Nam, dù sao cũng là một nước xuất cảng dầu thô nếu như có phải nhập cảng xăng dầu đã chế biến. Thì ông nghĩ Việt Nam liệu có thể bị thiệt hại nặng nề không? Hay là thiệt hại ở mức độ nào?
Một cơn chấn động dầu hỏa sẽ không làm Việt Nam bị thiệt hại trực tiếp và nặng nề như Thái Lan hay Phi Luật Tân, vốn không có dầu hỏa mà có hiệu năng tiêu thụ kém. Nhưng thiệt hại thì tất nhiên vẫn có. Về hiệu năng tiêu thụ thì suốt 10 năm qua Việt Nam có mức tiêu thụ xăng dầu tăng gấp rưỡi đà sản xuất, tức là hiệu năng rất thấp. Hơn nhiều nước Đông Á khác, Việt Nam có xuất cảng dầu thô nên có lợi nhờ vụ tăng giá nhưng vẫn bị hại vì phải nhập cảng thành phần chế biến từ dầu thô, như xăng, dầu, dầu cặn, v.v... Khi dầu thô tăng giá, thu nhập ngoại tệ của chính phủ có thể tăng, nhưng xăng dầu tăng giá thì dân chúng, giới tiêu thụ và sản xuất đều bị. Đến nay, chính quyền tìm cách trợ giá xăng dầu khi không tăng giá theo cùng phí tổn nhập khẩu, nhưng việc đó là gánh nặng ngân sách và sẽ khó kéo dài. Hậu quả trước nhất là vật giá gia tăng, lạm phát sẽ vượt mức 10%, và giới bần cùng sẽ khổ nhất. Kế tiếp, chi phí sản xuất tốn kém hơn sẽ đẩy tiếp lạm phát về phí tổn, đồng thời đánh sụt mức sản xuất trong nhiều ngành phải dùng xăng dầu như vận chuyển, du lịch, hàng tiêu dùng công nghiệp nhẹ. Sau cùng, khi toàn vùng Đông Á bị sút giảm như nhiều nơi đã dự đoán, xuất khẩu của Việt Nam cũng khó khăn hơn. Nếu Trung Quốc lại bị bể bóng đầu tư và khủng hoảng, thì kinh tế Việt Nam càng bị thiệt hại. Kết luận vì vậy vẫn là nhẹ nhất thì năm tới sản xuất sẽ giảm mà lạm phát tăng, sau đó tình hình nguy kịch đến đâu thì chúng ta chưa thể biết được vì còn chờ ẩn số Trung Quốc.