Đỗ Hiếu & Mai Thanh Truyết, RFA
Sau khi Hội nghị Thượng đỉnh về Tòan cầu hóa tại Rio de Janeiro năm 1992, nhiều Nghị quyết, Công ước liên quan đến các hoá chất độc hại và ô nhiễm không khí cùng hiện tượng nhà kính lần lượt ra đời như Nghị định thư Kyoto 1997, Công ước Stockholm, năm 2001, và Công ước Rotterdam, 2004. Tạp chí Khoa học & Môi trường kỳ nầy thảo luận với Tiến sĩ Mai Thanh Truyết về hai công ước sau cùng liên quan đến việc xử dụng, chuyển vận và trao đổi một số hoá chất được đánh giá là độc hại nhất giữa các quốc gia trên thế giới.
Đỗ Hiếu: Trước hết xin Tiến sĩ Mai Thanh Truyết duyệt sơ về kết quả của Hội nghị Thượng đỉnh về Toàn cầu hóa và những chuyển biến sau hội nghị?
TS Mai Thanh Truyết: Thưa anh, Kể từ khi đúc kết bản Thông cáo chung, qua sự đồng ý của 192 đại diện của các quốc gia trên thế giới, Hôị nghị đồng ý về việc thành lập những tổ chức để thúc đẩy và kiểm soát những vấn nạn môi trường trên thế giới như sau:
- Ký kết về việc kiểm soát hiệu ứng nhà kính qua NĐT Kyoto trong đó việc hạn chế sự phát thải khí CO2 vào bầu khí quyển là chính; - Ký kết về Đa dạng sinh học nêu lên tính cách bảo vệ, kiểm kê và chia xẻ hổ tương những vấn đề môi sinh giữa các quốc gia; - Luật về biển với mục đích điều hòa các hoạt động kinh tế tên mặt biển, cũng như quy định ranh giới và bảo vệ nguồn cá biển giữa các quốc gia.; - Luật đánh cá ngoài biển khơi áp dụng cho tòan thế giới; - Ký kết về việc cấm kỵ các nước tân tiến chuyển vận chất phế thải kỹ nghệ qua các quốc gia kém mở mang.
Đỗ Hiếu: Như trong phần dẫn nhập có hai Công ước quan trọng liên quan đến những hóa chất độc hại là CƯ Stockholm và Rotterdam, xin ông nói về công ước Stockholm trước?
TS Mai Thanh Truyết: Thưa anh, Công ước Stockholm được chấp thuận vào ngày 22-5-2001 qua kết quả của Hội nghị Khoáng đại về CƯ Stockholm trên các hợp chất hữu cơ khó phân hủy (CPSC POP) hay gọi tắt là POPs (persistent Organic Pollutants). Hội nghị do Tổ chức Phát triển Kỹ nghệ thuộc LHQ bảo trợ (UNIDO). Và kết quả sau hai ngaỳ hội nghị là danh sách 12 hoá chất độc hại bị cấm sản xuất và xử dụng.
Đỗ Hiếu: Đó là hoá chất nào thưa ông?
TS Mai Thanh Truyết: 12 hoá chất trên còn có tên gọi là hoá chất dơ bẩn (dirty) mà đứng đần là PCBs, Dioxins, Furans, Aldrin, Dieldrin, DTT, Endrin, Chlordane, Hexachlorobebzen (HCB) Mirex, Toxaphene, và Heptachlor. Đây là những hoá chất độc hại cdùng trong công nghệ cách điện như PCBs, trong thuốc diệt muỗi như DDT, và những hoá chất còn lại dùng để sản xuất các loại thuốc bảo vệ thực vật như thuốc trừ sâu rầy, trừ nấm mốc, diệt cỏ dại v.v.. .
Đỗ Hiếu: Trong danh sách có chất dioxin làm chúng tôi liên tưởng đến Việt Nam và chất Da cam trong thời chiến tranh. Như vậy mức độ độc hại của chất nầy như thế nào so với các hóa chất khác nằm trong danh sách thưa ông?
TS Mai Thanh Truyết: Thưa anh. Theo như nhiều người đã nhận định thì chất dioxin (số ít) là chất độc nhất trong các loại hoá chất hiện có trên thế giới. Nhưng chúng tôi xin thưa là dioxins (số nhiều), PCBs, và Furans là ba nhóm hoá chất có tính độc hại tương đương do đó chúng có tên chung là dioxin-tương đương.
Có tất cả 127 hóa chất từ ba nhóm nầy. Cho nên, mặc dù trong sách chỉ để tên 12 hóa chất , nhưng that ra có hàng trăm hóa chất đã bị cấm. Còn những hoá chất còn lại cũng là những chuyển hóa chất của chlor và các nhân benzene, cho nên cũng có tính độc hại tương đương như nhau. Tất cả những hóa chất trên đều có nguy cơ gây ra ung thư cho con người.
Một số hóa chất trên khi được pha chế thành thuốc sát trùng, hay diệt cỏ dại đều mang những thương hiệu khác nhau như: Aldrin còn có tên là Altox, Compound 118, Aldrosol. Dieldrin có tên thong maĩ là Quintox, D 31, Illoxil. Còn DDT có tên là Detox, Dicophane, Pentech, Santobane. Endrin có tên Compound 269, Hexadrin, Mendrin, và Chlordane còn có tên Dowchlor, Octachlor, Toxichlor, và M 140.
Các thương hiệu kể trên đây hiện đang được dùng rộng rãi trong nông nghiệp, thậm chí còn xử dụng trong việc chăn nuôi thủy sản trong công tác khử trùng ở Việt Nam. Riêng PCBs còn được công nhân nhà máy xi măng Thủ Đức dùng trong việc rửa tay chân.
Đỗ Hiếu: Xin TS giải thích tại sao 12 hóa chất trên độc hại?
TS Mai Thanh Truyết: Sở dĩ các hoá chất trên độc hại vì chúng rất bền vững vì những tính chất vật lý và hóa học của chúng. Trước hết chúng không bị phân hủy qua hiện tượng sinh thoái hóa (bio-degradation). Thời gian bán hủy trong thiên nhiên nghĩa là thơì gian bị phân hủy phân nửa của chúng vào khoảng 10 năm.
Thí dụ như 1Kg Dioxin được phun xịt năm 1962 thì đến năm 1972 chỉ còn lại 500 gr tồn tại trên mặt đất hay trong trầm tích hay trong ao hồ. Và đến năm 1982, chỉ còn lại 250 gr. Thêm một yếu tố khác nữa là các hoá chất trên có thể di chuyểm xa theo gió (không khí), theo dòng nước và ảnh hưởng lên môi trường ở những nơi cách xa nơi phát xuất. Chính vì vậy mới có Công ước Stockholm nầy.
Đỗ Hiếu: Ngoài 12 hóa chất dơ bẩn trên, Công ước có nghiên cứu thêm những hóa chất đặc biệt nào khác không thưa ông?
TS Mai Thanh Truyết: Dạ có thưa anh. Vaò kỳ nhóm họp lần tới cũng sẽ diễn ra tại Stockholm từ 1 đến 5 tháng 5, 2006, Công ước sẽ cứu xét sự độc hại của các hoá chất sau đây:
- Perfluo octane sulfonate; - Chlodecone hay Kepone. Đây là một loại thuốc sát trùng cự mạnh; - Pentabromodiphenyl và hexabromodiphenyl ethers: Đây là hai nhóm hóa chất dùng để điều chế các dung dịch chửa cháy như cháy rừng.
Ngoài ra còn một số hóa chất khác đang được đệ trình. Những hoá chất vừa kể trên được đem ra nghị sự là vì chúng đã được chứng minh rằng có nguy cơ độc hại lên con người qua những bằng cớ khoa học của nhiều khoa học gia trên thế giới và đã được đa số đồng thuận.
Đỗ Hiếu: Trở lại Công ước Stockholm, có bao nhiêu quốc gia trên thế giới tham dự và phê chuẩn công ước trên. Và Việt Nam có tham gia vào công ước nầy không thưa TS?
TS Mai Thanh Truyết: Có tất cả 151 quốc gia tham dự tại Stockholm vào hai ngày 22 và 23-5-2001. Việt Nam đã ký kết vào ngày 23/5 năm đó cũng như quốc hội Việt Nam đã phê chuẩn ngày 22-7-2002. Công ước đã chính thức trở thành luật vào ngày 27-5-2004.
Trong kỳ họp lần nầy, Việt Nam đã cử Tiến sĩ Phạm Khôi Nguyên, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên & Môi truờng tham gia thảo luận tại các phiên họp của hội nghị. Ông có đề nghị quốc tế giúp đỡ VN để thực hiện các dự án xủ lý chất thải hữu cơ khó phân hủy (POPs).
Đỗ Hiếu: Còn các quy định chung của công ước như thế nào thưa ông?
TS Mai Thanh Truyết: Đây là một công ước quốc tế về môi trường nhằm mục tiêu:
- Bảo vệ, bảo tồn và nâng cao phẩm chất của môi trường chung trên thế giới; - Bảo vệ sức khoẻ của con người; - Xử dụng hợp lý và thận trọng tất cả nguồn tài nguyên thiên nhiện; - Và sau cùng vận động và cổ súy sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết những vấn nạn môi trường tòan cầu hay từng vùng.
Đỗ Hiếu: Việt Nam đã ký kết và phê chuẩn công ước vào năm 2002, điều nầy có nghĩa là Việt Nam chấp nhận thi hành những điều luật ghi trong công ước. Theo TS, Việt Nam đã hành xử như thế nào trong việc áp dụng công ước trên?
TS Mai Thanh Truyết: Công ước có quy định rõ ràng việc cấm sản xuất và xử dụng những hoá chất trên. Nhưng trên thực tế, đối với các quốc gia đã phát triển như Âu châu, Bắc Mỹ, Úc.. ., họ đã tuân thủ và chấp hành Công ước như Hoa Kỳ đã chấm dứt việc sản xuất và dùng DDT từ năm 1973. Chỉ riêng đối với các quốc gia trong khối cộng sản dẩn đầu là Liên Sô cũ và Trung Quốc vẫn tiếp tục sản xuất DDT cho đến ngày nay (2005).
Riêng Việt Nam, vì không có khả năng sản xuất các hoá chất trên, nhưng mặc dù đã ký kết nhưng vẫn tiếp tục xử dụng hàng loạt các hoá chất nêu trên. Chỉ nội trong 3 năm 1992, 1993, và 1994 Việt Nam đã nhập trên 300 ngàn tấn DDT từ Liên Sô, Trung Quốc, và Tiệp Khắc. Trong những năm sau nầy số lượng tuy có giảm nhưng vẫn còn quá cao trên dưới 100 ngàn tấn so với diện tích trồng trọt và chăn nuôi hiện có của Việt Nam.
Theo Tiến sĩ Ngô Kiều Oanh, với diện tích khai thác nông nghiệp và thủy sản trên tòan quốc vào khỏang 12 triệu hecta, chỉ cần khoảng 30 ngàn tấn các loại thuốc bảo vệ thực vật là quá đủ cho nhu cầu.
Riêng về hóa chất PCBs, hiện tại đã có khoảng 30 tấn phế thải ở nhà máy xi măng Thủ Đức vẫn còn chờ đợi phương cách để xử lý. Và những hóa chất độc hại còn lại Việt Nam cũng vẫn còn xử dụng dưới những thương hiệu khác nhau. Trên toàn quốc hiện tại còn 15 kho chứa hóa chất bảo vệ thực vật và 3 khu tồn trử hóa chất độc hại nhưng không có thương hiệu rõ ràng đang cần phải xử lý gấp.
Những điều trên đây cho thấy Việt Nam vẫn tiếp tục đi còn đường tự tiện phát triển theo cách riêng của Việt Nam, hòan toàn không tuân thủ những gì Việt Nam đã ký kết với thế giới, không lưu tâm đến công cuộc bảo vệ môi trường chung.
Đây mới chính là vấn nạn môi trường lớn của Việt Nam hiện tại. Và cho đến nay chung ta vẫn chưa thấy Việt Nam có chỉ dấu tích cực nào cho thấy Việt Nam có chiều hướng thay đổi cung cách phát triển quốc gia ứng hợp với chiều hướng tòan cầu hóa.
Trong lần tới chúng tôi sẽ trao đổi với thính giả về công ước Rotterdam và một số công ước khác liên quan đến mội trường chung trên thế giới.