Những Vấn đề Thủy lợi ở Ðồng bằng sông Cửu Long (phần 1)


2006.11.15

Nguyễn Minh Quang & Đỗ Hiếu, RFA

Kể từ năm 1975, một hệ thống thủy lợi qui mô đã được xây dựng trong toàn vùng Ðồng bằng sông Cửu Long nhằm giúp phát triển nhanh vùng đất trù phú nầy. Hệ thống thủy lợi đó đã góp phần không nhỏ trong việc phát triển kinh tế và xã hội trong thời gian qua; nhưng cũng đã phát sinh ra nhiều vấn đề ngày càng rõ nét, và có thể trở thành một lực cản cho việc phát triển kinh tế và xã hội bền vững của ÐBSCL trong tương lai.

Nhân mùa lũ lụt đang đến, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả loạt bài phân tích những vấn đề ấy của kỹ sư Nguyễn Minh Quang qua cuộc trao đổi với biện tập viên Đỗ Hiếu của ban Việt ngữ.

Ông Quang hiện là một kỹ sư công chánh chuyên nghiệp (professional engineer) của tiểu bang California và một chuyên viên thuộc Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. Ông từng phụ trách công tác nghiên cứu và soạn thảo các kế hoạch phát triển thủy lợi ở miền Nam Việt Nam cũng như đo đạc thủy học và tiên đoán lũ lụt ở ÐBSCL từ trứơc năm 1975. Loạt bài gồm bẩy bài đã phát rải rác trứơc đây trong chương trình của ban Việt ngữ. Xin kính mời quý thính giả theo dõi bài thứ nhất.

Hệ thống thủy lợi vùng Đồng bằng sông Cửu Long

Đỗ Hiếu: Trước hết, Kỹ sư có thể cho quý thính giả của đài Á Châu Tự Do biết tại sao hệ thống thủy lợi ở Ðồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL) lại phát sinh ra nhiều vấn đề như chúng ta đang nhận thấy hiện nay?

Ks Nguyễn Minh Quang: Có thể nói, hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL được bắt đầu xây dựng chỉ vài tháng sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt vào tháng 4/1975. Nhưng mãi cho đến hôm nay, theo sự đánh giá của chính những người có trách nhiệm ở trong nước, nó vẫn “chưa hoàn chỉnh và có nhiều bất cập.”

Hệ thống thủy lợi nầy được đoàn Quy hoạch Thủy lợi ÐBSCL, được gọi tắt là đoàn Quy hoạch Cửu Long (ÐQHCL), đề nghị để “thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chánh trị to lớn” là biến tất cả đất đai có thể trồng trọt còn lại ở ÐBSCL thành ruộng lúa có thể trồng nhiều vụ một năm, nhằm đạt chỉ tiêu 20 triệu tấn lúa/năm trong kế hoạch ngủ niên 1975-1980. Có thể nói một cách ngắn gọn rằng các vấn đề của hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL hiện nay bắt nguồn từ việc quy hoạch không đúng cách và thiếu thực tiễn sau chiến tranh.

Đỗ Hiếu: Là một chuyên viên thủy lợi ở miền Nam, KS có nhận xét gì về ÐQHCL?

Ks Nguyễn Minh Quang: ÐQHCL là một trong các đoàn quy hoạch, gồm một số chuyên viên thủy lợi “ưu tú” của miền Bắc, được đưa vào miền Nam để khảo sát, nghiên cứu, và thiết lập kế hoạch khai thác tiềm năng thủy lợi ở miền Nam. Mỗi đoàn phụ trách một vùng hoặc một lưu vực sông.

Theo nhận xét của tôi, khả năng và kinh nghiệm chuyên môn của thành viên trong đoàn rất hạn chế, nhưng họ lại rất tự hào về “khả năng chiến đấu và chiến thắng,” nên họ đã không cần nghiên cứu và tìm hiểu những đặc tính phức tạp của ÐBSCL, một đồng bằng có đặc tính hoàn toàn khác với Ðồng bằng sông Hồng (ÐBSH).

Họ cũng không để ý đến các ý kiến của chuyên viên thủy lợi của miền Nam và rất nghi ngờ kết quả nghiên của các cơ quan hoặc công ty cố vấn quốc tế. Họ vẫn dùng các nguyên tắc trị thủy được áp dụng ở ÐBSH từ bao đời.

Đỗ Hiếu: Nguyên tắc trị thủy ở ÐBSH như thế nào, và tại sao nó không thích hợp với ÐBSCL, thưa KS?

Ks Nguyễn Minh Quang: Dạ thưa, nguyên tắc trị thủy ở ÐBSH đã có từ ngàn xưa và được áp dụng rộng rãi ở nhiều nơi, nhất là ở Trung Hoa. Nguyên tắc nầy có thể gọi là nguyên tắc đào đấp, vì chỉ cần đào kinh để dẫn nước và đấp đê để chận nước. Ở ÐBSH, một hệ thống đê điều kiên cố được đấp dọc theo bờ sông để ngăn chận nước lũ, và một hệ thống kinh được đào để dẫn nước sông vào nơi thiếu nước ngọt để thâm canh tăng vụ trong mùa khô.

Ngoại trừ việc đáy sông Hồng bị bồi lắng và đất đai bạc màu vì thiếu phù sa, nguyên tắc nầy tỏ ra có hiệu quả ở ÐBSH; nhưng nó không thể áp dụng ở ÐBSCL vì đồng bằng nầy có đặc tính hoàn toàn khác với ÐBSH. ÐBSCL là một đồng bằng thấp, bằng phẳng và có nhiều vùng trũng thấp hơn mặt nước biển trung bình; cho nên, các kinh đào là những lòng lạch thuận lợi cho nước lũ tràn vào những vùng trũng làm cho những vùng nầy ngập sâu hơn và nhanh hơn.

Hệ thống đê biển ngăn chận nước lũ, khiến nước ngập sâu hơn và kéo dài hơn. Hệ thống đê bao nội đồng làm giãm diện tích và đổi hướng dòng chảy làm tăng vận tốc và chiều cao nước lũ và có thể ảnh hưởng đến những vùng trước đây chưa bị ngập lụt.

Kế hoạch tổng thể cho ĐBSCL

Đỗ Hiếu: Vào năm 1991, một kế hoạch tổng thể cho ÐBSCL (Mekong Delta Master Plan) do hãng Kỹ sư cố vấn NEDECO, Hòa Lan soạn thảo, được công bố qua dự án VIE/87/031 do Ngân hàng Thế giới (World Bank), Ủy ban Quốc tế Mekong Lâm thời (Interim Mekong Committee), và Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (United Nations Development Programme (UNDP)) tài trợ. Kế hoạch nầy có ảnh hưởng gì đến hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL không?

Ks Nguyễn Minh Quang: Dự án soạn thảo kế hoạch tổng thể ÐBSCL bắt đầu năm 1987 do NEDECO của Hòa Lan và Rhein-Ruhr Ingenieor-Gesellschaft (RRIG) của Ðức phụ trách. Nhưng trên thực tế, hai hãng kỹ sư cố vấn nầy chỉ dựa theo chủ trương và chánh sách do nhà cầm quyền Việt Nam đưa ra mà thôi.

Thí dụ như Phân viện Khảo sát Quy hoạch Thủy lợi Nam Bộ (PVKSQHTLNB), là hậu thân của ÐQHCL, đã yêu cầu NEDECO và RRIG đưa vào kế hoạch tổng thể ÐBSCL tất cả 45 công trình thủy lợi do họ nghiên cứu trước đây, mà hầu hết là đào kinh và đấp đê, nhằm bảo đảm cho việc trồng lúa trong 10-15 năm sắp tới.

Thậm chí có nhiều phần trong kế hoạch được giao cho chuyên viên trong nước soạn thảo và viết phúc trình. Cho nên, kế hoạch tổng thể ÐBSCL do NEDECO và RRIG soạn thảo chỉ “hợp thức hóa” cái hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL do ÐQHCL đưa ra trước đó mà thôi.

Đỗ Hiếu: KS có cho biết, hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL đã được quy hoạch và bắt đầu xây dựng ngay sau khi chánh quyền Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ vào tháng 4 năm 1975. Nhưng tại sao cho mãi đến bây giờ nó mới có ảnh hưởng tiêu cực?

Ks Nguyễn Minh Quang: Hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL bắt đầu có những ảnh hưởng tiêu cực về mặt thủy học ngay trong trận lụt năm 1978. Mặc dù mực nước sông Cửu Long tại Tân Châu và Châu Ðốc chưa vượt quá mực nước kỷ lục trong trận lụt 1961 và 1966, diện tích ngập của trận lụt 1978 trải rộng hơn, và thời gian ngập kéo dài hơn so với hai trận lụt lịch sữ nầy.

Ảnh hưởng tiêu cực của hệ thống thủy lợi nầy, về phương diện môi trường, được trình bày một cách đầy đủ và có hệ thống trong nghiên cứu của Trung tâm Tài nguyên Mekong Úc Châu thuộc trường Ðại học Sydney, Australia vào năm 2001. Nhưng trên thực tế, một số các công trình thủy lợi của hệ thống nầy đã gây ô nhiễm môi trường rất sớm. Thí dụ như cống ngăn mặn Kỳ Son ở tỉnh Long An, đã làm nước trong rạch Kỳ Son bị ô nhiễm khiến cá chết sạch sau khi nó được đưa vào sử dụng năm 1976.

Đỗ Hiếu: Những người có trách nhiệm trong việc quy hoạch và xây dựng hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL và các cơ quan chức năng có nhận thấy các tác hại của nó không, thưa KS?

Ks Nguyễn Minh Quang: Dạ thưa, câu trả lời là có. Chính PVKSQHTLNB, là cơ quan quy hoạch hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL, trong một báo cáo công bố năm 1999, đã thừa nhận rằng, tôi xin trích nguyên văn: “Trong hai thập kỷ vừa qua con người đã tác động mạnh mẽ lên vùng ngập lụt của châu thổ sông Mekong. Nhiều kênh mới đã được đào, nhiều kênh cũ đã được nạo vét, mạng lưới kênh cấp II ngày càng được đan dày đã làm tăng khả năng chuyển lũ qua các vùng ngập. Mặt khác các hệ thống giao thông đường bộ cũng được đan dày và tôn cao nhưng khẩu độ cầu cống chưa đủ đã làm ách tắc việc thoát lũ, làm dâng mực nước lũ một số vùng, trong đó đáng chú ý ở vùng ÐTM [Ðồng Tháp Mười] và TGLX [Tứ giác Long Xuyên] của Việt Nam.”

Ảnh hưởng tiêu cực và những điều chỉnh

Đỗ Hiếu: Như vậy, những người có trách nhiệm và các cơ quan chức năng có điều chỉnh lại hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL sau khi nhận thấy ảnh hưởng tai hại của nó không?

Ks Nguyễn Minh Quang: Những người có trách nhiệm trong việc quy hoạch và xây dựng hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL và các cơ quan chức năng liên hệ đã điều chỉnh nhiều lần, nhưng họ vẫn cho rằng nguyên tắc trị thủy đang được áp dụng là đúng.

Do đó, họ càng điều chỉnh thì ảnh hưởng tiêu cực của hệ thống thủy lợi lại càng nghiêm trọng hơn. Sau các trận lụt năm 1978, 1984, 1991, 1994, và 1995; hệ thống được điều chỉnh và được chánh phủ phê duyệt qua quyết định số 99/TTg của Thủ tướng ngày 9 tháng 2 năm 1996 nhằm nạo vét sâu hơn, đào nhiều kinh hơn, đấp đê bao nhiều và cao hơn, và đấp đê và cống ngăn mặn nhiều hơn.

Kết quả là nước lũ nội đồng trong trận lụt 1996 ở vùng ÐTM và TGLX đã phá kỷ lục. Sau trận lụt 1996, hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL lại được điều chỉnh một lần nữa, và như chúng ta đã biết, trận lụt năm 2000 đã trở thành một trận lụt lịch sữ, mặc dù mực nước tại Tân Châu và Châu Ðốc vẫn thấp hơn mực nước của hai trận lụt 1961 và 1966.

Đỗ Hiếu: Với tư cách của một chuyên viên thủy lợi quen thuộc với ÐBSCL, KS có nhận xét gì về những vấn đề thủy lợi ở ÐBSCL hiện nay?

Ks Nguyễn Minh Quang: Theo tôi, những vấn thủy lợi ở ÐBSCL hiện nay sẽ ngày càng nghiêm trọng hơn vì những người có trách nhiệm quy hoạch và các cơ quan chức năng vẫn không chịu thay đổi nguyên tắc trị thủy hiện nay.

Họ lý luận rằng kinh đào không đủ rộng và sâu để thoát nước lũ và hệ thống đê bao và đường giao thông không đủ cao để ngăn chận nước lũ nên trận lụt năm 2000 mới gây nhiều thiệt hại nghiêm trọng; do đó, cần “đào nhiều và sâu hơn, đấp nhiều và cao hơn,” như được trình bày trong Phúc trình Phân tích Phân vùng 10V, Kế hoạch Phát triển Lưu vực (Report Analysis of Sub-Area 10V, Basin Development Plan) do PVKSQHTLNB và Ủy ban Quốc gia sông Mekong/Việt Nam soạn thảo và công bố trong tháng 11 năm 2003.

(Quý thính giả vừa nghe bài thứ nhất trong loạt bài phân tích những vấn đề của hệ thống thuỷ lợi tại đồng bằng sông Cửu Long qua cuộc trao đổi giữa BTV Đỗ Hiếu của ban Việt ngữ và kỹ sư công chánh chuyên nghiệp Nguyễn Minh Quang. Kỳ tới, kỹ sư Quang sẽ phân tích lý do tại sao nứơc mặn ngày càng xâm nhập sâu hơn vào vùng đồng bằng trù phú này. Mong quý thính giả đón nghe.)

Nhận xét

Bạn có thể đưa ý kiến của mình vào khung phía dưới. Ý kiến của Bạn sẽ được xem xét trước khi đưa lên trang web, phù hợp với Nguyên tắc sử dụng của RFA. Ý kiến của Bạn sẽ không xuất hiện ngay lập tức. RFA không chịu trách nhiệm về nội dung các ý kiến. Hãy vui lòng tôn trọng các quan điểm khác biệt cũng như căn cứ vào các dữ kiện của vấn đề.