Người Việt ở Hungaria (phần 1)

Lời giới thiệu : Sau sự kiện bức tường Berlin sụp đổ, những cộng đồng người Việt tại các nước Đông Âu đã bắt đầu hình thành. Trong những chương trình trước, chúng tôi đã trình bày về cộng đồng người Việt ở một số nước châu Âu. Mục "Cái nhìn từ Đông Âu" hôm nay xin giới thiệu đôi nét về người Việt ở Hungary qua bài của Hoài Việt...Hungary - với dân số bằng 1/7 và diện tích bằng 1/3 Việt Nam - là một xứ sở nhỏ, thanh bình nằm ở vùng Trung (Đông) Âu. Nhắc đến Hung, dân Việt thường liên tưởng ngay đến thành Eger, hồ Balaton cùng đội túc cầu vàng với thủ quân Puskás Ferenc từng tung hoàng khắp địa cầu vào thập niên 50. Kể ra, đó cũng là những biểu tượng tiêu biểu nhất của mảnh đất này mà một người ngoại quốc, với tầm hiểu biết trung bình, có thể hay biết qua phim ảnh, sách báo và các phương tiện truyền thông đại chúng khác. Xét qua lịch sử cận - hiện đại, Hungary là một nước "nhược tiểu" luôn đứng về phe bại trận trong cả hai cuộc Thế chiến. Một phần không nhỏ lãnh thổ của xứ sở này bị các cường quốc cắt xén và sát nhập vào những quốc gia lân cận như Rumani, Tiệp Khắc, Nam Tư, Liên Xô (cũ)... Trong gần bốn thập kỷ rưỡi kể từ năm 1945, giống như mọi quốc gia khác ở Đông Âu, Hungary nằm trong vòng kiềm tỏa chặt chẽ của điện Cẩm Linh, với những chính quyền ít nhiều mang tính bù nhìn và nhất cử nhất động đều do quan thầy Mạc Tư Khoa giật dây.Tuy nhiên, nếu để ý kỹ hơn, có thể thấy đất nước nhỏ này - với bề dày lịch sử và văn hóa hơn 1100 năm - đã từng làm nên nhiều kỳ tích. Hungary được thế giới ngưỡng mộ với lòng quả cảm trong cuộc cách mạng năm 1956 chống lại sự áp đặt và xâm lăng của "thiên triều" Xô-viết. Trong hơn 30 năm về sau, dưới sự cầm lái mềm dẻo và đa mưu của tổng bí thư đảng cộng sản Kádár János, Hungary được phương Tây biết đến như một nước XHCN uyển chuyển: tại đây, dân chúng vẫn có cái ăn, cái mặc ở mức kha khá, và thỉnh thoảng vẫn được du hí qua các nước "tư bản". Và, kể từ khi thay đổi thể chế chính trị vào năm 1989, Hungary cũng là một trong những nước hàng đầu của Đông Âu trong việc hàn gắn quá khứ, phát triển nền kinh tế và gây dựng một xã hội công dân thực sự dân chủ.Dài dòng như thế, cũng là để có đôi lời tri âm về một mảnh đất đang chứa chở khoảng 5 - 6 ngàn con Hồng cháu Lạc, trong đó có chúng tôi.Tại sao người Việt lại rời quê hương đến sinh sống, làm ăn tại một xứ sở xa xôi và lạ lẫm như Hungary? Đây là một câu chuyện dài, đầy tính bi hài nên chúng tôi xin có vài lời về lược sử quá trình di dân ấy. Như đã nói ở trên, Hungary từng là một nước trong khối XHCN nên trước sau không có quan hệ ngoại giao với chế độ Việt Nam cộng hòa. Những người Việt đầu tiên đến Hung đều từ miền Bắc, khoảng đầu những năm 60, tức là vào thủa cuộc "kháng chiến chống Mỹ" vừa bắt đầu. Số người được cử sang Hung không nhiều, mỗi năm thường dăm ba chục người. Trừ một số không lớn lắm là công nhân học nghề, đa phần họ là những lưu học sinh, nghiên cứu sinh và thực tập sinh, theo cách gọi thông thường ở nhà.Vào những năm đó, những người được sang Hungary cũng như sang các nước XHCN khác đều phải trải qua quá trình lựa chọn của nhà nước. Sự lựa chọn này phụ thuộc nhiều vào những yếu tố ngoại vi, như thành phần gia đình, lý lịch bản thân..., lắm khi kiến thức chỉ là phụ. Vào thời kỳ đó, đôi lúc chỉ cần có lý lịch "trong sạch" hay thuộc loại "con ông cháu cha", "gia đình tập kết"... là đủ tiêu chuẩn "xuất ngoại". Lớp người mở màn này - theo chính lời kể của họ - luôn phải chịu sự o ép về nhiều mặt của sứ quán. Đi bất kỳ đâu cũng phải thành nhóm để tiện bề giám sát lẫn nhau. Học hành, sinh hoạt thường theo "tổ tam" (tức là ba người một nhóm) như hình mẫu ở nhà. Quan hệ với người bản xứ rất hạn chế và cầm chừng, có chăng, chỉ trên tinh thần "quốc tế vô sản", "đoàn kết chiến đấu chống đế quốc"..., chứ tuyệt nhiên không được phép yêu đương luyến ái gì. Những người này thường xuyên phải dự các buổi "học tập chính trị", "phê và tự phê", rập khuôn mô hình thời "Nhân văn Giai phẩm" ở ta và "Cách mạng văn hóa" bên Tàu. Ai mà ho he tí gì là lập tức bị đưa về nước để "xử lý". Do vậy nên đa số dân Việt rất "thuần", chỉ tập trung vào học tập và "tu dưỡng". Thỉnh thoảng nếu được sứ quán khen ngợi, biểu dương thì lấy làm thích chí và vinh hiển lắm. Ai nấy đều cố gắng gom góp để khi về nước có chiếc Radio của Hung sản xuất, hay ít quần áo đẹp kiểu Tây, là mãn nguyện lắm rồi. Ít ai có ý ở lại, mà có muốn cũng chẳng xong vì bộ máy quản lý của sứ quán rất nghiêm ngặt. Vì thế, cứ tốt nghiệp xong là ai cũng răm rắp sửa soạn va-li chờ vé máy bay về nước "phục vụ tổ quốc". Tình hình này kéo dài cho đến những năm cuối của thập kỷ 70. Sau ngày đất nước thống nhất, chờ mãi chẳng thấy Mỹ "bồi thường chiến tranh" mà nợ nần các nước "anh em" lại chồng chất, Việt Nam bèn "xuất khẩu" hàng loạt con em mình đi làm việc trả nợ, dưới cái tên mỹ miều "hợp tác lao động". Chính lực lượng hùng hậu này, phối hợp cùng lớp người được cử đi học, thoát khỏi đất nước trong hoàn cảnh đói khổ, cùng quẫn đầu thập niên 80, đã tỏ ra "dám nghĩ dám làm" và tạo nên một nguồn sinh khí mới cho người Việt ở Hungary. Từ đó, đối với đa số người Việt ngụ tại đây, học tập và lao động theo khuôn khổ chính thức chỉ là phụ, mà làm ăn buôn bán phục vụ đời sống kinh tế của bản thân và gia đình ở quốc nội mới là mối suy tư chính.Tuy nhiên, trước 1989 thì những hoạt động kinh doanh của người Việt ở Hung còn nằm trong khuôn khổ hết sức hạn chế, tranh tối tranh sáng. Một hình thức "trao đổi hàng hai chiều" phổ biến và "truyền thống" là nhà gửi hàng từ Việt Nam qua (ví dụ như quần áo, vòng xiểng, tượng v.v...) và bên này tìm cách tiêu thụ. Tiền bán ra thường được dùng để mua tân dược gửi về nhà. Những người tháo vát hơn thì buôn lậu thuốc lá, rượu, mỹ phẩm..., dĩ nhiên là chui lủi và ở mức độ không thật lớn. Lý do là họ bị phụ thuộc cả vào sứ quán Việt Nam lẫn chính quyền cộng sản sở tại.Vào những năm "cởi trói" ở nhà, vòng đai quản lý của sứ quán có phần lỏng lẻo hơn. Cũng như ở các nước Đông Âu khác, sứ quán Việt Nam tại Hung cũng tự "cởi trói" cho mình bằng việc buôn lậu. Cạnh đó, những chuyển biến chính trị ở Đông Âu khiến người nước ngoài ở Hung bắt đầu có khả năng kinh doanh một cách hợp pháp tại nước này. Thực hiện khẩu hiệu "tự cứu lấy mình", dân Việt trở nên "táo tợn" hẳn. Hầu hết những người học xong, hay hết hạn hợp đồng lao động, chưa chịu về ngay mà cứ rốn lại vài năm để kiếm cho ra ít tiền cái đã. Nếu ai yêu người bản xứ, thì cứ cưới, "một công đôi việc": vừa thỏa mãn được phần "hồn", tức là nhu cầu tình cảm, vừa giải quyết được phần "xác", tức là có cớ để tiếp tục cư trú và kiếm tiền sinh nhai. Hồi xưa có chút hàng mang sang nhờ Tây bán, thì giờ tự tay mình đem đi tiêu thụ. Trước kia, phải nhờ các nhân viên sứ quán vào cửa hàng ngoại tệ mua "hộ" hàng hóa với giá cắt cổ, thì giờ mọi người tự đi móc nối với "mối" này, "mối" nọ tận nước ngoài. Sau khi biến cố Đông Âu xảy ra, khá nhiều người Việt đã bỏ Hungary sang Đức, Áo, hay Pháp để "nếm mùi tư bản". Thế vào chỗ đó, nhiều người từ Việt Nam sang du lịch, hoặc "thăm thân nhân" cũng tìm cách ở lại buôn bán. Một cộng đồng Việt dần dà được hình thành, không chỉ bao gồm những người cư trú ngắn hạn dăm ba năm với mục đích học tập, lao động, mà còn chứa chở nhiều người định cư dài hạn, hoặc đã nhập tịch, coi Hung là "tổ quốc" thứ hai sau Việt Nam.Cũng như phần lớn người Việt ở các nước Đông Âu, vấn đề trở ngại lớn nhất cho cuộc sống của người Việt ở Hung là lo giấy tờ cư trú hợp pháp. Bởi vì: có an cư mới lập nghiệp được. Để có đủ giấy tờ hợp pháp cư trú tại Hung, người Việt phải tốn kém rất nhiều, qua bao nhiêu cửa ải.