Báo cáo Hatfield
2004.12.06
By: Mai Thanh Truyết
Vấn đề dioxin-chất da cam đã được dư luận thế giới và Hoa kỳ lưu ý từ gần 20 năm qua, sau khi có những yêu cầu đòi hỏi chính phủ Mỹ phải bồi thường và cung cấp bảo hiểm y tế cho các cựu quân nhân Hoa kỳ đã từng tham chiến tại Việt Nam.
Về phía Việt Nam, từ khi Hội Nạn Nhân Chất Da cam/Dioxin Việt Nam đưa đơn kiện 37 công ty hóa chất Hoa Kỳ vào ngày 10/1/04, vấn đề dioxin-chất da cam lại đựơc khơi dậy khắp nơi. Báo chí trên thế giới, các hảng thông tấn...lần lượt chuyển những tin nóng sốt từ Việt Nam nhất là những khám phá mới nhất ở các địa phương về nguy cơ bị nhiễm độc dioxin. Một trong vài tài liệu mà Hội Nạn Nhân Chất Da Cam Việt Nam chủ yếu dựa vào để tiến hành vụ kiện là “Báo cáo Hatfield”.
Nguyễn An: Kính chào Tiến sĩ Mai Thanh Truyết, trứơc hết, ông cho biết khái lược về nguyên nhân và lịch sử của báo cáo Hatfield nầy.
Mai Thanh Truyết: Thưa anh, thật ra đây là một phối hợp hành động của công ty Hatfield Consultants Ltd (West Vancouver, Canada) và Ủy ban 10-80 của Việt Nam (thành lập vào tháng 10/1980 tại Hà Nội). Công ty Hatfield được cơ quan phát triển quốc tế Canada tài trợ. Báo cáo thứ nhất đúc kết các cuộc điều tra sơ khởi và thu thập dữ kiện từ năm 1994 - 1998.
Báo cáo thứ hai công bố vào tháng 4/2000 dưới tiêu đề:" Development of Impact Mitigation Strategies Related to the Use of Agent Orange Herbicide in the A Luoi Valley, Viet Nam". Chúng tôi xin tạm dịch "Chiến lược giải tỏa những vấn nạn trong phát triển liên quan đến việc xử dụng chất Da cam ở thung lũng A Lưới".
Hỏi: Tại sao công ty Hatfield chọn A Lưới là địa điểm nghiên cứu?
Đáp: Cty Hatfield đã chọn thung lũng A Lưới, cách Huế 65 Km về hướng đông để làm địa điểm nghiên cứu. A Lưới đã từng nổi tiếng một thời dưới danh hiệu Ngọn đồi 937 (Hill 937) hay Hamburger Hill. Căn cứ nầy đã bị quân đội Hoa kỳ bỏ hoang từ tháng 5/1969. A So hay A Shau hay Đồng Sơn (tên đặt sau 1975) là một căn cứ không quân nhỏ của quân đội Hoa kỳ nằm phía nam của thung lũng; căn cứ đã bị bỏ hoang từ 8/12/1965.
Tại hai nơi nầy, chất khai quang màu da cam đã được phung xịt nhiều nhất trong suốt thời gian từ 1965 đến 1970. Có tất cả 224 phi vụ trên tổng số 606 phi vụ của vùng Thừa Thiên được rãi xuống A Lưới trong khoảng thời gian nầy.
Hỏi: Cuộc nghiên cứu của Cty Hatfield đã tiến hành như thế nào, thưa Tiến sĩ?
Đáp: Các mẫu đất, máu, sữa mẹ, và thực động vật lấy từ thung lũng được phân tích để tìm chỉ dấu của dioxin, một hóa chất độc hại có trong thuốc khai quang. Do chi phí phân tích quá cao (khỏang US$ 1.000/mẫu). Có 28 mẫu được phân tích trong năm 1996 cho vùng A Lưới, và 22 mẫu cho A So trong năm 1997.
Đất: A So: 220 ppt (một phần ức)(3/99) Đáy hồ A So: 6,9 (1998); A Lưới: 1,1 - 0,9 ppt (1997); Máu/ A So - Đàn ông: - (lớn hơn 25 tuổi) 41 ppt (1999); Đàn bà : - (lớn hơn 25 tuổi) 16 ppt (1999); Sữa mẹ/ A So: 1,4 - 16 ppt (1999).
Sau đây là kết quả các cuộc phân tích trích ra từ báo cáo trên:
Đất: A So: 220 ppt (một phần ức)(3/99) Đáy hồ A So: 6,9 (1998); A Lưới: 1,1 - 0,9 ppt (1997); Máu/ A So - Đàn ông: - (lớn hơn 25 tuổi) 41 ppt (1999); - Đàn bà : - (lớn hơn 25 tuổi) 16 ppt (1999); Sữa mẹ/ A So: 1,4 - 16 ppt (1999).
Hỏi: Những con số này vừa khó hiểu vừa khó nhớ, nhưng từ các kết quả ấy, báo cáo Hatfield đã đưa ra kết luận như thế nào?
Đáp: Các kết luận sau đây được ghi nhận trong báo cáo 1998:
"Dây chuyền thực phẩm có chỉ dấu nhiễm độc dioxin trong đất, đáy hồ, cá, vịt , và người ở gần căn cứ A So.
"Lượng dioxin tương đối cao được tìm thấy trong máu cư dân sống quanh căn cứ A So. Trẻ em sinh sản sau chiến tranh cũng có lượng dioxin cao trong máu chứng tỏ rằng dioxin đã xâm nhập vào dây chuyền thực phẩm.
"Số lượng phân tích cho thấy có sự liên hệ trực tiếp giữa chất màu da cam và môi trường có ảnh hưởng lên sức khỏe con người.Tuy nhiên báo cáo cũng đề nghị cần phải có những khảo sát sâu rộng hơn nữa cùng với sự tham gia của các tổ chức đa quốc gia gồm những chuyên viên chuyên môn về dioxin để thẩm định lại những mối liên hệ trên.
Nhìn chung các kết luận và đề nghị trong báo cáo sơ khởi nầy tương đối khách quan và trung thực dựa theo các số liệu thu thập được. Nhưng, qua đến báo cáo 4/2000, và cũng là báo cáo tổng kết, sự việc hòan tòan trái ngược hẳn. Các số liệu trong báo cáo trước đã được xử dụng lại cộng thêm một số kết quả phân tích mới trong năm 1997, 1998, và 1999.
Hỏi: Tiến sĩ vừa nói đến báo cáo tháng 4/2000 hoàn toàn trái ngược với báo cáo ở những năm trước đó. Như vậy có điều gì nghịch lý chăng?
Đáp: Thưa có thưa anh. Về Đất. Trước hết, theo kết luận của Hatfield, căn cứ theo kết quả thu thập năm 1996, 1997 thì vùng đất đã bị ô nhiễm dioxin phải được tuyên bố là "vùng ô nhiễm" căn cứ theo quy định Tây phương.
Về máu người. Kết quả phân tích và suy diễn hàm lượng dioxin trong máu của cư dân sống tại A So đã được trình bày trên đây cho thấy có hiện tượng không bình thường. Để có khái niệm về hàm lượng dioxin trong máu người dân sống ở các nước Tây phương, các số liệu sau cho thấy lượng dioxin trung bình trong máu người dân sống chung quanh các cơ sở hay nhà máy sản xuất có nguy cơ phóng thích ra dioxin trong quy trình sản xuất:
"Hoa Kỳ (Dân chúng sống chung quanh nhà máy giấy): 8,6 ppt dioxin; "Đức (nhà máy sản xuất 2,4,5-T): 331,8 ppt và 125,6 ppt ở hai thành phố sản xuất khác nhau; "Nga sô (Nhà máy sản xuất 2,4,5-T) 168 ppt (đàn ông), 202 ppt (đàn bà).
"Hoa kỳ (Dân chúng sống chung quanh nhà máy giấy): 8,6 ppt dioxin; "Đức (nhà máy sản xuất 2,4,5-T): 331,8 ppt và 125,6 ppt ở hai thành phố sản xuất khác nhau; "Nga sô (Nhà máy sản xuất 2,4,5-T) 168 ppt (đàn ông), 202 ppt (đàn bà).
Ở những nơi có hàm lượng dioxin cao trong máu như một vài vùng ở Đức, Nga sô, mãi cho đến nay, vẫn chưa thấy có báo cáo chính thức nào về các hiện tượng dị hình dị dạng cũng như các chứng ung thư xảy ra cho cư dân sống chunh quanh vùng bị ô nhiễm.
Hỏi: Còn về sữa mẹ thì sao?
Đáp: Về sữa mẹ. Báo cáo cung cấp lượng dioxin tìm thấy trong sữa mẹ ở vùng A So trong năm 1999 thay đổi từ 1,9 đến 19 ppt cho 16 mẫu thử nghiệm (trung bình là 14.6 ppt). Trong lúc đó, ở các quốc gia Tây phương lượng dioxin trung bình trong sữa mẹ được ghi nhận như sau:
Kazakhstan (vùng nông thôn ở Nga sô, 8 mẫu) 46,5 ppt (số liệu của Hatfield). Theo báo cáo nghiên cứu của Kim Hooper et al. (Environmental Health Perspectives Volume 107, Number 6, June/1999) thì mức độ ô nhiễm ở vùng nông nghiệp phía Nam tỉnh Kazakhstan (Nga Sô) rất cao.
Lượng dioxin trong sữa mẹ đã lên đến 208pg/g (hay ppt) (phần ức) qua 64 mẫu thử nghiệm, vùng nầy là một vùng trồng bông vải và đã xử dụng thuốc diệt cỏ dại có chứa TCDD. Chúng tôi đã trực tiếp hỏi Tiến sĩ Hooper về tình trạng sức khỏe ở vùng nầy nhưng được cho biết là không có báo cáo về vấn đề nầy.
Tóm lại, các số liệu và dữ kiện trên đây là những bằng cớ xác định sự hiện diện của dioxin trong máu và sữa mẹ của cư dân sống ở vùng A So, nơi bị phun xịt rất nhiều chất da cam, và những nơi trên thế giới đã xảy ra tai nạn hay nhiễm độc dioxin. Kết quả so sánh cho thấy nồng độ trong máu giữa các nơi kễ trên cũng không sai biệt bao nhiêu, và tại những nơi nầy cũng chưa thấy có chỉ dấu bất thường nào cả.
Hỏi: Như vậy toàn vùng A Sho, A Lưới hoàn toàn bị tiêu hủy và đất không còn có thể canh tác được theo báo cáo của Hatfield, phải không?
Đáp: Vẫn theo báo cáo trên thì đúng như vậy thưa anh. Tuy nhiên dựa theo tin tức đăng tải trên báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 15/9/2004 thì tình hình khác hẳn.
Hỏi: Khác như thế nào thưa Tiến sĩ?
Đáp 8: Cái khác biệt ở đây là từ một vùng đã được công bố là bị nhiễm nặng chất độc da cam mà nay, Đoàn kinh tế-quốc phòng 92 đã khai thác tối đa tiềm năng đất đai ở đây để đẩy mạnh kinh tế trong vùng. Đặc biệt là cây trồng như bầu, bí, rau quả...đều cho cây trái tốt tươi và đàn bò phát triển mạnh ngay trên đồng cỏ nguyên là sân bay A Sho cũ.
Chỉ nội điều nầy thôi cũng đã nói lên tính mâu thuẫn trong kết luận năm 2000 của Cty Hatfield mà Hội NNCDCViệt Nam đã dựa vào báo cáo nầy để kiện 37 công ty hóa chất Hoa Kỳ.
Hỏi: Tiến sĩ đã nêu ra những nghịch lý trong báo cáo trên, như vậy tại sao Hội NNCDCViệt Nam lại xử dụng báo cáo nầy để làm tăng trọng lượng cho vụ kiện?
Mai Thanh Truyết: Từ các phân tích ở phần trên, Cty Hatfield và Ủy ban 10-80 đã vô tình hay cố ý tạo ra những báo cáo không trung thực, và đôi khi các kết qủa và kết luận lại mâu thuẫn với những khám phá đo đạc của chính công ty ấy. Cty Hatfield đã thẩm định và suy diễn một cách có dụng ý từ những "con số phân tích" để đưa ra những kết luận có thể làm sai lệch sự thật.
Chúng tôi nghĩ, Hội NNCDC Việt Nam hy vọng với báo cáo nầy ngòai việc đánh động lương tâm thế giới, còn mong tìm được số tiền bồi thường khổng lồ từ phía các cộng ty hóa chất Hoa kỳ, mong được thêm tài trợ từ các cơ quan từ thiện trên thế giới, hay thầm kín hơn nữa, mong giải thích cho đồng bào cùng khổ ở Việt Nam biết được rằng vì hậu quả chiến tranh triền miên mà không thể phát triển đất nước như mong muốn để cho dân giàu nước mạnh được?!
Kính chào thính giả của Đài ACTD
Nguyễn An: Xin cảm ơn tiến sĩ Mai Thanh Truyết
Những bài liên quan khác:
- Một bài học từ thảm nạn Chernobyl
- Năng lượng hạch nhân cho tương lai
- Xử lý nước thải bằng phương pháp vi sinh
- Bãi Rác Đông Thạnh: Thí Dụ Điển Hình cho Việc Quản Lý "Kém" (bài 2)
- Bãi rác Đông Thạnh: Thí dụ điển hình cho việc quản ký kém (Bài 1)
- Góp ý về việc phát triển đồng bằng sông Cửu Long
- Dioxins: Việc tái thẩm định mức độc hại
- "Chất Da Cam": Tranh tụng về an toàn sản phẩm
- Môi sinh Châu Á bị ô nhiễm nghiêm trọng