Lời Giới Thiệu: Hôm nay, cử tri Hoa Kỳ đang bầu ra các chức vụ lãnh đạo, từ liên bang đến tiểu bang, từ tổng thống đến một số đại diện dân cử và quyết định một số luật lệ ở địa phương. Quan trọng nhất, dĩ nhiên là cuộc bầu cử tổng thống. Cho dù bất cứ ai sẽ lãnh đạo Hoa Kỳ từ tháng Giêng năm tới, nền kinh tế Hoa Kỳ sẽ đi về đâu? Là một trong ba cỗ máy chủ lực của kinh tế thế giới, sự thịnh suy của kinh tế Mỹ có ảnh hưởng không nhỏ đối với Việt Nam. Việt-Long trao đổi với kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa về vấn đề vừa nêu, trong Diễn Đàn kinh tế tuần này.
By line: Nguyễn Xuân Nghĩa
Hỏi: Thưa ông, hôm nay chúng ta sẽ đề cập đến kinh tế Hoa Kỳ sau ngày tổng tuyển cử, vào lúc cử tri Mỹ đang đi bỏ phiếu, trong đó việc bầu lên tổng thống được coi là quan trọng nhất. Tuy nhiên trước hết, ông vui lòng cho biết cảm nghĩ chung về cuộc bầu cử này.
Đáp: Tôi thiển nghĩ là cuộc bầu cử này còn nhức tim nhức đầu hơn kỳ trước, vào năm 2000, vì hai liên danh Dân chủ và Cộng hoà ở vào thế ngang ngửa cho đến ngày cuối, thậm chí giờ cuối. Về tình hình chung thì sau bầu cử, xã hội Mỹ càng tách ra hai cực đối nghịch gay gắt.
Không có đa số đủ lớn để cho là mình được quần chúng ủy thác cho một sứ mạng rõ rệt, Tổng thống đắc cử khó đưa ra các đề nghị cải cách rốt ráo. Huống hồ thực tế thì Tổng thống Mỹ không có toàn quyền về kinh tế, vì thị trường, giới đầu tư và tiêu thụ có tầm quyết định lớn hơn.
Kế đó là ngân hàng trung ương, có tư thế độc lập về chính sách tín dụng và tiền tệ; là Hạ viện có thẩm quyền về ngân sách quốc gia, Thượng viện có quyền phê chuẩn các hiệp định với quốc tế, trong đó có ngoại thương. Kết cuộc thì có khi các hồ sơ kinh tế trầm trọng vẫn không được giải quyết sau cuộc bầu cử này.
Hỏi: Nhưng, trong tình trạng xã hội Hoa Kỳ bị phân làm hai cực như ông vừa nói thì ông cho rằng người ta có cách nào giải quyết được các hồ sơ kinh tế trầm trọng ấy hay không?
Đáp: Đấy mới là vấn đề. Tôi đoán là đảng Cộng hoà có thể củng cố được chút ít đa số trong cả hai viện trên dưới của Quốc hội. Dù vậy, chính trường Mỹ vẫn gặp hiện tượng bên này gọi là "ách tắc", là "gridlock", nên khó có kế hoạch quy mô dứt khoát, vì vậy, hiện trạng sẽ kéo dài, các vấn đề kinh tế của Mỹ sẽ tiếp tục. Đây là ta chưa nói đến một ưu tiên nghiêm trọng không kém là cuộc chiến chống xu hướng Hồi giáo cực đoan, dùng phương pháp khủng bố và chiêu bài Thánh chiến để tấn công Hoa Kỳ với mục tiêu sau cùng là khuynh đảo thế giới Hồi giáo, từ Bắc Phi đến Trung Đông, Trung Á và Đông Nam Á. Khủng bố và ách tắc là hai lý do, có khi là lý cớ, trì hoãn giải quyết các hồ sơ kinh tế lớn.
Tôi xin nói ngay là nhiều vấn đề kinh tế có thể khách quan xảy ra vì các chuyển động mạnh và chậm của thiên nhiên hay con người chứ không do gian ý hay ác ý của một thành phần nào trong xã hội. Nhưng, vì lý do chính trị, có khi người ta muốn truy tìm thủ phạm và còn đề ra giải pháp cứu vãn có ẩn ý chính trị cục bộ hay nhất thời, khiến vấn đề lại thành trầm trọng hơn. Vụ tổng khủng hoảng Mỹ xảy ra cách đây đúng 75 năm vào tuần này có thể thuộc trường hợp đáng tiếc ấy, trường hợp gọi là “liều thuốc đổ bệnh”.
Hỏi: Và bây giờ, ta bắt đầu đi vào các hồ sơ kinh tế ấy; truớc tiên, vấn đề của kinh tế Mỹ nằm ở chỗ nào?
Đáp: Nếu đặt trong một viễn ảnh dài, chừng năm mười năm trở lên, Hoa Kỳ có năm sáu vấn đề kinh tế phải đối phó. Đầu tiên là nhờ khoa học kỹ thuật người ta sống thọ hơn, do đó tỷ lệ cao niên thì tăng mà tỷ lệ lao động thì giảm trong dân số, nhiều người hết năng lực sản xuất vẫn còn năng lực tiêu thụ.
Dù có chậm hơn các xứ công nghiệp nhờ chính sách tiếp nhận di dân, Hoa Kỳ cũng gặp hiện tượng “lão hoá dân số”, tức là tiến bộ về khoa học đang tạo ra một vấn đề kinh tế mà giới chính trị không muốn hay không dám đối phó. Cụ thể thì tuổi thọ bình quân của dân Mỹ tăng từ 68 lên 72 tuổi trong 50 năm qua, với hậu quả đè nặng trên lãnh vực y tế và hưu bổng, được tranh cãi rất nhiều trong cuộc tranh cử vừa qua mà cả hai liên danh đều không có giải pháp thỏa đáng khi lớp người sinh sau Thế chiến II sẽ về hưu trong những năm tới.
Vấn đề thứ nhì, dù không thuộc địa hạt kinh tế nhưng có nguyên do và hậu quả kinh tế rõ rệt, là nạn xuống cấp giáo dục. Trong khi người già thì đông hơn, tuổi trẻ lại không được giáo dục chu đáo, nhất là tại cấp trung học, trong các bộ môn về toán pháp, và khoa học, chưa kể sự yếu kém gần như truyền thống của xã hội Mỹ về bộ môn sử địa. Các thống kê khảo sát từ hơn mười năm qua cho thấy trẻ em Mỹ thua trẻ em các xứ kỹ nghệ, thậm chí cả các nước tân hưng Đông Á, về toán và khoa học.
Lý do kể ra khá nhiều, nhưng chỉ xin nói là vì nạn xuống cấp ấy, kinh tế Mỹ sẽ gặp nghịch lý là thiếu người có trình độ chuyên môn và tay nghề cao, lãnh lương hậu, và thừa người kém tay nghề, ăn lương thấp. Về dài thì năng suất lao động sẽ sụt và nguồn nhân lực không đủ đẩy mạnh công cuộc phát triển của kinh tế và quốc gia. Giải pháp tăng lương tối thiểu mà không cải tổ giáo dục thì chỉ là liều thuốc ngoài da, có khi còn gây thêm thất nghiệp trong giới bần cùng ít học.
Hỏi: Hai vấn đề này nghe ra có vẻ xã hội, nhưng hẳn ông cho là gây hậu quả bất lợi cho sinh hoạt kinh tế, phải không ạ?
Đáp: Thưa vâng, và tác động lên nhiều hồ sơ kinh tế khác. Hồ sơ thứ ba, là hệ thống bảo dưỡng sức khoẻ. Hoa Kỳ có nền y tế tối tân, nhưng chi phí gia tăng khá nhanh so với tổng sản lượng nội địa GDP. Vấn đề thực ra không đến nỗi nguy nếu xã hội chấp nhận trả giá cho phẩm chất của dịch vụ y tế. Nhưng, câu hỏi là ai trả và ai hưởng? Hiện nay, các doanh nghiệp và dân thọ thuế thanh toán đến 80% chi phí này; phần trang trải của người thừa hưởng đang giảm dần, từ 60% xuống 14%, kể từ 1960 đến giờ. Của có đau thì con mới xót, nếu không là có lãng phí và lạm dụng, trong khi ai đó vẫn phải thanh toán.
Vấn đề thứ hai của hồ sơ y tế là có giới hạn trong thành phần được cung cấp các dịch vụ phòng bệnh và chữa bệnh, một đề tài hấp dẫn về chính trị nhưng khó có giải pháp kinh tế toàn hảo nếu không san xẻ gánh nặng chi phí cho công bằng hơn.
Vấn đề thứ ba là phẩm chất y tế: Mỹ không đứng đầu thế giới trong địa hạt ấy, nếu xét tới tuổi thọ trung bình hay số tử vong của trẻ sơ sinh. Lý do chính là hệ thống tổ chức kém hiệu năng và bị luật lệ chi phối quá nặng. Hậu quả chung là doanh nghiệp Mỹ giảm sức cạnh tranh vì gánh nặng y tế cho nhân viên trong khi quá nhiều người chưa có được bảo hiểm y tế. Giới chính trị đều nói đến cải tổ mà không muốn cử tri của mình bị thiệt nên thực tế chưa có giải pháp thỏa đáng. Và sự tốn kém sẽ lại dồn cho người thọ thuế và ngân sách quốc gia.
Hỏi: Ông đã đề cập tổng quát tới ba vấn đề là nạn lão hóa dân số, xuống cấp giáo dục và chi phí y tế, vậy hồ sơ thứ tư là gì?
Đáp: Là khả năng tiết kiệm rất ít cho mai sau, là truyện ngụ ngôn "Ve sầu và con kiến" của La Fontaine được hiện đại hoá. Với tỷ lệ tiết kiệm quốc gia chỉ ở khoảng 2%, so với trung bình là 7% của bốn chục năm qua, hay 30% tại Á châu, Hoa Kỳ tiết kiệm không đủ cho hai yêu cầu tất yếu của tương lai là đầu tư kinh tế và hưu bổng cho người trọng tuổi.
Nạn lão hóa dân số và chế độ y tế khiến dân Mỹ tiêu thụ nhiều hơn tiết kiệm, trong đó có tiêu thụ về y tế cho người lớn tuổi. Chính sách thuế khóa khuyến khích dân Mỹ mua nhà như một cách để dành và thành quả chống lạm phát đi cùng sự phát đạt của thị trường cổ phiếu từ hai chục năm qua khiến dân Mỹ thấy mình giàu có hơn, tiêu pha rộng rãi hơn.
Khi trái bóng đầu tư bị vỡ, kinh tế bị suy trầm rồi xứ sở bị khủng bố, bị chiến tranh, họ đã không giảm đà tiêu thụ mà còn được khuyến khích tiêu xài để kích cầu kinh tế. Những triệu chứng của một vụ kết toán sổ sách - là tính sổ chi tiêu để thấy ra nguy cơ phá sản - đã xuất hiện, nhưng vẫn chưa có giải pháp thoả đáng để nâng mức tiết kiệm. Nhu cầu trang trải kinh phí cho ngày mai đang đòi hỏi nhiều biện pháp cải cách cấp bách.
Các doanh nghiệp khó làm tròn nghĩa vụ hưu liễm như đã cam kết, quỹ hưu bổng tư nhân chưa được hưởng ứng đông đảo và rốt cuộc thì ngân sách quốc gia sẽ chi trả qua quỹ An sinh Xã hội, tức là hoặc phải tăng thuế, hoặc giảm bớt phúc lợi, là điều không ai thích. Vắn tắt thì cả người dân và lãnh đạo chưa chuẩn bị tâm lý để nói tới thắt lưng buộc bụng.
Hỏi: Còn lại hồ sơ thứ năm, có lẽ là kết quả của bốn vấn đề vừa kể, và là nạn bội chi ngân sách phải không ạ?
Đáp: Thưa vâng, trước mắt thì nạn bể bóng đầu tư rồi suy trầm kinh tế và khủng bố có thể biện minh cho việc tăng chi trong cảnh giảm thu nhất thời. Nhưng, cùng với biện pháp giảm thuế để kích cầu và kéo kinh tế ra khỏi trì trệ, Hoa Kỳ lại tăng chi quá khả năng vì các chính khách đều muốn lấy lòng thành phần cử tri của mình.
Hậu quả là Mỹ bị bội chi ngân sách và khiếm hụt cán cân vãng lai. So với tiêu chuẩn Âu châu thì chưa đến nỗi nguy kịch, nhưng so với yêu cầu chi tiêu của năm tới là chi phí quốc phòng và của nhiều năm sau, là y tế và an sinh xã hội chẳng hạn, thì hai loại khiếm hụt ấy sẽ là đe dọa lớn nhất cho kinh tế và sẽ chi phối các nước khác qua lãi suất ngân hàng và hối suất Mỹ kim, chưa nói đến tranh chấp mậu dịch, kèn cựa về ngoại thương. Nếu có thế lực vì được đa số đông đảo ủng hộ, vị tổng thống mới có thể kêu gọi toàn dân thống nhất ý chí để cải tổ cơ cấu, để sống tằn tiện hơn hầu đối đầu nổi với thách đố trước mắt, về cả an ninh và kinh tế.
Nhưng với một nước Mỹ vỡ đôi, lãnh đạo nào lên cũng bị đối phương cho là bất xứng nên sẽ khó giải quyết được các hồ sơ kinh tế này. Thị trường vốn thường có lối bỏ phiếu tàn khốc hơn, nên tương lai có thể là một chấn động chính trị trong dịp bầu cử tổng thống năm 2008 sau khi thị trường gây ra một chấn động kinh tế ngay trong vài năm tới.
Hỏi: Rốt cuộc, thì trước viễn ảnh một nước Mỹ bị khó khăn về kinh tế, chắc các nhà kinh tế ở Việt Nam cũng không vui thích gì, phải không thưa ông?
Đáp: Tôi xin được nhắc lại rằng các vấn đề kinh tế của Hoa Kỳ thuộc vào loại chuyển động lớn và chậm mà giới lãnh đạo có thể không giải quyết được ngay lập tức, hoặc không giải quyết nổi vì những ách tắc chính trị sau cuộc bầu cử. Nếu tình trạng này kéo dài thì sau nạn suy trầm kinh tế Đông Á trong năm tới, hiệu ứng sẽ dội ngược về Hoa Kỳ và với mấy nhược điểm ta vừa nói về kinh tế Mỹ, kinh tế toàn cầu sẽ bị nhiều sóng gió.
Một tác động có thể dự đoán được là tiền Mỹ sau khi đứng giá từ tháng Hai đến nay sẽ còn sụt giá và phải được điều chỉnh, kết quả đó sẽ ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu của Đông Á và của Việt Nam vào thị trường Mỹ. Kế tiếp có thể là những rào cản về mậu dịch, thậm chí tranh chấp về mậu dịch sẽ lan rộng. Việt Nam có sức cạnh tranh kém nhất sẽ bị thiệt nhất. Nếu sự điều chỉnh xảy ra đột ngột, tình hình có khi nguy ngập hơn trong những năm sau 2006 và vì Việt Nam rất cần đến sự thịnh vượng của thị trường Mỹ, những dự báo này tất nhiên không phải là tin vui.