
Những giới hạn của quan hệ đối tác Nga-Trung,
một mối quan hệ vốn được tuyên bố là không có giới hạn
Tập Cận Bình và Putin cùng chung sự nghiệp chống Mỹ nhưng mối quan hệ phức tạp giữa hai bên bắt rễ từ những lợi ích riêng.
Bài viết của Luna Phạm cho RFA
Ngày 4/12/2023
Ba tuần trước khi những chiếc xe tăng của Nga đổ bộ vào Ukraine năm ngoái (2022), Tổng thống Vladimir Putin đã sang Bắc Kinh tham dự lễ khai mạc Thế vận hội Olympics Mùa đông do Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình chủ trì – một sự kiện bị các nhà lãnh đạo phương Tây xa lánh.
Trong một tuyên bố chung dài 5.300 từ được công bố trong cùng ngày, hai ông Tập và Putin nói rằng tình hữu nghị giữa hai quốc gia là “không có giới hạn”. Tuyên bố đã gây ra một làn sóng bất an ở phương Tây vì nó đưa ra tín hiệu rằng hai cường quốc độc tài nổi trội trên thế giới đang xây dựng một sự nghiệp chung.
Chuyến thăm Bắc Kinh trong tháng 10 vừa qua cũng là chuyến công du nước ngoài đầu tiên bên ngoài Liên Xô cũ của ông Putin kể từ khi Tòa án Hình sự Quốc tế ra lệnh bắt giữ ông vì tội ác chiến tranh ở Ukraine.
Quan hệ giữa Trung Quốc và Nga được đẩy mạnh trong những năm gần đây vì cả hai nước đều tìm kiếm một trật tự thế giới mới chống lại Mỹ, đối thủ chung của họ. Tuy nhiên, kể từ khi cuộc chiến tại Ukraine bắt đầu, Trung Quốc đã né tránh việc cung cấp viện trợ quân sự trực tiếp cho Nga.
Quan hệ song phương giữa hai cường quốc này phức tạp và có nhiều sắc thái hơn những gì chúng ta nhìn thấy. Mối liên hệ giữa Mátxcơva với Trung Quốc có một lịch sử lâu dài và phong phú, bắt đầu từ trước khi Đảng Cộng sản Trung Quốc trở thành đảng cầm quyền ở Bắc Kinh cách đây bảy thập kỷ.

Cô dâu Xô-viết của Quốc Dân Đảng
Đầu giờ chiều ngày 15/12/2004, bà Tưởng Phương Lương – vợ góa của cựu Tổng thống Đài Loan Tưởng Kinh Quốc, qua đời vì suy hô hấp và suy tim tại một bệnh viện ở Đài Bắc ở tuổi 88. Bà đã sống một cuộc đời cô đơn và lặng lẽ trong một gia đình quan chức cao cấp nhất ở Đài Loan. Chồng và ba con trai đều qua đời trước bà.
Sinh ra ở Faina Vakhreva trong Đế chế Nga, bà là đoàn viên của Đoàn Thanh niên Cộng sản Liên Xô và đã gặp chồng tương lai của mình khi cả hai cùng làm việc tại một nhà máy ở Siberia. Họ cưới nhau năm 1935.
Vài năm trước đó, cha của ông Tưởng, Thống chế Tưởng Giới Thạch, người lãnh đạo Quốc dân Đảng Trung Quốc lên nắm quyền ở Trung Quốc đại lục. Tuy nhiên vào năm 1949, chiến thắng của những người Cộng sản đã đẩy gia đình họ Tưởng và chính phủ của họ lùi sang Đài Loan – nơi bà Phương Lương sống và qua đời.
Liên Xô và sau này là Nga có rất ít tiếp xúc với Đài Loan nhưng mối liên hệ với nước Nga của gia đình họ Tưởng có thể xem là một sự gợi nhớ về việc những người Xô-viết đã từng có ảnh hưởng như thế nào đối với chính trị của hai bờ eo biển Đài Loan.
Ông Tưởng Kinh Quốc tới Liên Xô khi mới 15 tuổi và đã ở đó 12 năm. Ông đã sống theo lối sống của một người Mác-xít Xô viết, thậm chí còn lấy tên tiếng Nga là Nikolai Vladimirovich – đặt theo tên của Vladimir Ilyich Lenin - nhà lãnh đạo đầu tiên của Liên Xô.
Quốc Dân Đảng, được thành lập bởi ông Tôn Dật Tiên vào năm 1912, đã nhận được sự ủng hộ và viện trợ của Liên Xô trong một thời gian dài. Tuy nhiên, trong cuộc Nội chiến Trung Quốc (1927-1949), người Xô-viết đã chuyển sang hỗ trợ những người Cộng sản – những người đã đánh bại những người Quốc dân đảng và thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Bà Tưởng Phương Lương cùng chồng là cựu Tổng thống Đài Loan Tưởng Kinh Quốc và các con trong một bức ảnh không ghi ngày. Nguồn ảnh: AFP/KMT
Trong cuốn hồi ký “Những ngày tôi sống ở nước Nga Xô-viết” của mình, ông Tưởng Kinh Quốc hồi tưởng lại thời gian ông “bị hoàn toàn cách biệt khỏi Trung Quốc, tôi thậm chí không được gửi một lá thư” và những năm tháng đằng đẵng đó là “khoảng thời gian khó khăn nhất” trong cuộc đời ông. Theo các nhà sử học Alexander Larin và Alexander Lukin, những yêu cầu xin được trở về Trung Quốc của ông đều bị nhà cầm quyền từ chối vì ông gần như đã bị giữ làm con tin bởi người kế nhiệm của Lê-nin, nhà lãnh đạo Xô-viết Joseph Stalin.

Bà Tưởng Phương Lương trong một bộ quần áo truyền thống. Ảnh không có ngày tháng. Nguồn ảnh: AFP/KMT
Tưởng Kinh Quốc và gia đình nhỏ của ông đã được phép rời Nga vào năm 1937 khi ở Trung Quốc, Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản thành lập một liên minh mới để chống lại sự xâm lược của Nhật Bản, giai đoạn ngay trước Thế chiến thứ 2. Đó là một cuộc trốn thoát may mắn vì đất nước Xô-viết khi đó đang trải qua một thời kỳ trấn áp chính trị cực đoan, thường được biết đến với cái tên: thời kỳ “Đại Thanh trừng”. Hàng trăm nghìn người là đối thủ chính trị của Stalin đã bị loại bỏ và xóa sổ.
Kể từ đó cho đến những ngày cuối cùng của cuộc đời, người vợ Nga của ông Tưởng Kinh Quốc đã không bao giờ trở về thăm quê hương của mình.
Những năm tháng ở Liên Xô đã khiến ông Tưởng Kinh Quốc “xem xét chủ nghĩa xã hội với cái nhìn phê phán hơn và giúp cho ông diễn tiến theo hướng chống chủ nghĩa cộng sản” – Larin và Lukin lập luận. Hai nhà sử gia này cũng cho rằng sự thất bại của hệ thống kinh tế Xô-viết cũng đóng góp cho sự chuyển đổi sang cải cách thị trường của Đài Loan dưới thời kỳ ông làm Tổng thống trong những năm 1970.
Và không chỉ ở Đài Loan, “cuối cùng những người Cộng sản ở Trung Quốc lục địa cũng đi đến cùng kết luận” về mô hình kinh tế Xô-viết, các tác giả người Nga này nhận định.
“Đặng Tiểu Bình, kiến trúc sư của những cải cách kinh tế ở Trung Quốc lục địa, là bạn học cùng lớp của ông Tưởng ....và cũng đã có những trải nghiệm tương tự nhưng ngắn hơn nhiều ở Liên Xô” – hai tác giả viết.
Hàng xóm tốt
Từ những năm 1960 đến những năm 1990, quan hệ Trung-Xô trải qua nhiều sóng gió, trong đó có cuộc xung đột biên giới kéo dài bảy tháng vào năm 1969. Chính quyền Trung Quốc của Mao Trạch Đông lên án Mátxcơva "phản bội chủ nghĩa cộng sản" còn Liên Xô thì cắt bỏ tất cả hỗ trợ kinh tế cho Bắc Kinh.
Quan hệ Nga – Trung chỉ ấm lên sau khi ông Mikhail Gorbachev trở thành Tổng bí thư của Đảng Cộng sản Liên Xô và khởi xướng công cuộc cải cách chính trị và xã hội có tên gọi là perestroika (cải tổ). Sau khi Liên Xô tan rã, Trung Quốc đã công nhận Liên bang Nga là nước kế thừa hợp pháp của Liên Xô vào ngày 24/12/1991. Mười năm sau đó, Mátxcơva và Bắc Kinh đã ký Hiệp ước Láng giềng Tốt và Hợp tác Thân thiện, mở đường cho một chương mới trong quan hệ đối tác đặc biệt giữa hai nước.

Một tuyên bố chung được hai nước đưa ra nhân kỷ niệm 20 năm ngày ký Hiệp ước nói trên trong năm 2021 khẳng định: Quan hệ Nga – Trung “đã đạt được cấp độ cao nhất trong lịch sử hai nước”.
"Quan hệ Nga-Trung dựa trên cơ sở bình đẳng, tin tưởng sâu sắc lẫn nhau, cam kết tuân thủ luật pháp quốc tế, ủng hộ bảo vệ lợi ích cốt lõi của nhau, các nguyên tắc về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ” – tuyên bố khẳng định.
Quan hệ Trung – Nga được mô tả một cách chính thức là “quan hệ đối tác toàn diện và tương tác chiến lược trong kỷ nguyên mới” – bộ Ngoại giao Nga cho biết.
Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Nga kể từ năm 2010 với thương mại hai chiều đạt 140,7 tỷ đô la vào năm 2021 và 134,1 tỷ đô la trong bảy tháng đầu năm 2023. Hai nước đặt mục tiêu cán đích 200 tỷ đô la hoặc nhiều hơn trong năm 2023.
Nga là nhà cung cấp dầu lớn thứ hai cho Trung Quốc, sau Ả rập Xê-Út với 86,3 triệu tấn dầu xuất khẩu trong năm 2022. Cũng trong năm này, Trung Quốc đã mua 68,1 triệu tấn than từ Nga.
Và Trung Quốc là một trong những nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất ở Nga. Trong chuyến thăm Trung Quốc vào tháng 5 năm nay (2023), Thủ tướng Nga Mikhail Mishutin nói với nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình rằng hiện có 79 dự án chung với tổng trị giá hơn 165 tỷ đô la đang hoạt động ở cả hai nước.
“Nga mong muốn một nước Trung Quốc ổn định và thịnh vượng, và Trung Quốc mong muốn một nước Nga hùng mạnh và thành công” – các văn bản chính thức giữa hai nước nhấn mạnh.

Tuy nhiên, theo ông Ian Storey, một học giả tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ISEAS – Yusof Ishak tại Singapore, ngoài các lợi ích chung về kinh tế, “nhận thức về mối đe dọa chung” nằm ở vị trí trung tâm trong quan hệ song phương giữa hai nước.
“Mátxcơva và Bắc Kinh coi vị trí số một của Mỹ là trái ngược với lợi ích quốc gia của họ và là sự đe dọa đến sự tồn vong của chế độ” – ông Storey nói. Theo ông, giới lãnh đạo Nga và Trung Quốc tin rằng Mỹ đang theo đuổi một chiến lược kiềm chế chống lại họ và “quyết tâm lật đổ chế độ chính trị độc tài của họ bằng cách dàn dựng “các cuộc cách mạng màu”.
Liên minh hay không?
Để đáp lại, Mátxcơva và Bắc Kinh đã và đang tăng cường hợp tác quân sự, và điều này đã làm dấy lên câu hỏi liệu sự hợp tác này có phải là một dạng liên minh quân sự.
Vào năm 2020, khi được hỏi tại một cuộc họp rằng liệu có thể có một liên minh như vậy, ông Putin đã trả lời rằng cả Nga và Trung Quốc “đã luôn tin tưởng rằng quan hệ của chúng tôi đã đạt tới một mức độ hợp tác và tin cậy mà một liên minh như vậy là không cần thiết”.
"Chúng tôi đã đạt được mức độ hợp tác cao trong ngành công nghiệp quốc phòng - tôi không chỉ nói về việc trao đổi hoặc mua bán các sản phẩm quân sự, mà còn cả việc chia sẻ công nghệ - điều có lẽ là quan trọng nhất" - ông Putin nói.

Các nhà phân tích cho rằng sự chênh lệch về sức mạnh có thể ngăn cản việc thành lập liên minh giữa hai nước.
Alexander Gabuev - một chuyên gia về Nga của Viện nghiên cứu Carnegie Endowment đã viết rằng “đối với Nga, vì đang chịu các lệnh trừng phạt từ phương Tây, Trung Quốc đang trở thành một đối tác ngày càng quan trọng và khó có thể thay thế”. Tuy nhiên, ông cũng nói thêm rằng đối với Bắc Kinh “Mátxcơva có thể dễ dàng bị thay thế vì hầu hết những thứ Nga cung cấp cho Trung Quốc đều có thể mua được ở nơi nào đó khác”.
“Thêm vào đó, các lệnh trừng phạt của Mỹ và Liên minh Châu u (EU) đang dần khiến Nga phụ thuộc vào Trung Quốc về công nghệ dân sự chiến lược, chẳng hạn như các hệ thống 5G" – ông Gabuev nói và đề cập đến một loại mạng internet di động tốc độ cao.
“Mátxcơva và Bắc Kinh hiểu rõ rằng lợi ích của họ không phải lúc nào cũng trùng khớp” – chuyên gia này nói và thêm rằng: “Không bên nào muốn liều lĩnh để bị cuốn vào một cuộc xung đột lớn vì lợi ích của đối tác”.
Tuy nhiên, Tuyên bố chung về Hiệp ước láng giềng tốt và Hợp tác Thân thiện năm 2021 nêu rõ: "Mặc dù không phải là một liên minh quân sự và chính trị như những liên minh được hình thành trong thời Chiến tranh lạnh, quan hệ Nga-Trung ở mức độ cao hơn hình thức tương tác liên quốc gia này."
Dù không có một liên minh chính thức, hợp tác quân sự và kỹ thuật quân sự giữa hai nước đã được tăng cường trong những năm gần đây. Tuy nhiên, kể từ khi Nga xâm lược Ukraine, những giới hạn của sự hợp tác này cũng trở nên khá rõ ràng.

Khách quen
Putin và Tập đã gặp nhau tới 42 lần trong vòng 10 năm qua.
Ông Putin đã thăm Trung Quốc 22 lần, thường xuyên hơn bất kỳ nhà lãnh đạo nào trên thế giới. Về phần mình, ông Tập đã thăm Nga chín lần, cũng nhiều hơn bất kỳ nước nào mà ông đã đến thăm. Lần gần nhất mà ông Tập thăm Mátxcơva là vào tháng 3/2023. Đây cũng là chuyến công du nước ngoài đầu tiên kể từ khi ông được tái đắc cử nhiệm kỳ thứ ba hiếm hoi.
Một năm trước đó và ngay trước khi Mátxcơva xâm lược Ukraine, ông Tập và ông Putin đã tuyên bố về “quan hệ hữu nghị không có giới hạn” giữa hai nước. Sẽ “không có vùng cấm” trong quan hệ hai nước.
Nhưng kể từ khi cuộc chiến tranh ở Ukraine bắt đầu vào tháng 2/2022, Trung Quốc đã gần như đã không cung cấp hỗ trợ vật chất nào cho chiến dịch quân sự của Nga.
Tuy nhiên, Bắc Kinh đã hỗ trợ Mátxcơva bằng ngôn từ, lặp lại việc Nga mô tả cuộc xâm lược này là một “chiến dịch quân sự đặc biệt”, bị khiêu khích bởi việc NATO mở rộng. Trung Quốc cũng bỏ phiếu trắng đối với một nghị quyết lên án hành động của Nga của Liên Hợp Quốc.
Đầu năm nay (2023), Bắc Kinh đã công bố “Lập trường về Giải quyết Chính trị đối với cuộc Khủng hoảng Ukraine” - một văn bản 12 điểm này được cho là để làm trung gian cho một thỏa thuận hòa bình. Văn bản này không lên án sự gây hấn của Nga đối với Ukraine cũng không xem việc Nga rút quân như một điều kiện tiền đề cho hòa bình và cũng không mang đến một thành công rõ ràng nào.
Vassily Kashin, một học giả Nga chuyên về quân sự Trung Quốc nói rằng không có dấu hiệu nào cho thấy Trung Quốc muốn thay đổi lập trường lâu dài của mình về việc không cung cấp vũ khí cho Nga trong thời gian diễn ra cuộc chiến tranh Ukraine.
Mỹ đã cảnh báo Trung Quốc về những biện pháp trừng phạt nghiêm khắc nếu nước này cung cấp vũ khí cho Nga.
“Nếu Trung Quốc nhìn thấy họ sẽ mất nhiều hơn được do một số hành động ủng hộ Nga, họ sẽ không bao giờ thực hiện những hành động đó” – ông Kashin nói. “Điều này giải thích vì sao Trung Quốc đã kiềm chế không bán vũ khí cho Nga, thậm chí bất chấp thực tế rằng vũ khí của Trung Quốc nhiều khả năng có thể hoàn toàn thay đổi cục diện trên chiến trường ở Ukraine.”

Bạn cùng giường
Trong khi chưa tỏ rõ lập trường về cuộc chiến, đồng thời tuyên bố tinh thần khách quan, Bắc Kinh dường như ở một vị thế đặc biệt vì được hưởng lợi từ khoảng trống mà Nga để lại trên thị trường vũ khí thế giới vì nước này phải chuyển hướng sản xuất vũ khí của mình sang phục vụ chiến trường.
“Vì Kremlin xâm lược Ukraine vào tháng 2/2022, sẽ có ngày càng ít nước quan tâm tới việc mua thiết bị của Nga” – ông Ian Storey từ Viện nghiên cứu Đông Nam Á ISEAS - Yusof Ishak, người đã nghiên cứu về quan hệ quân sự Nga – Trung trong nhiều năm, nói.
Ngành công nghiệp quốc phòng của Trung Quốc có cơ hội được hưởng lợi. Theo danh sách của trang Tin tức Quốc phòng (Defense News) - một website chuyên về thông tin công nghiệp quốc phòng - cho biết sáu trong số 15 công ty quốc phòng lớn nhất thế giới hiện nay là của Trung Quốc.
"Nhiều hệ thống tinh vi của Trung Quốc có nguồn gốc từ các đối tác Nga, và các hệ thống phòng không tầm trung và tầm xa nằm trong những tính năng được khách hàng của Nga tìm kiếm nhiều nhất" – trang Tin tức Quốc phòng cho biết.
Ian Chong, một nhà khoa học chính trị từ Đại học Quốc gia Singapore cho biết có những tranh luận về những tính toán chiến lược của Trung Quốc.
“Một số cho rằng Bắc Kinh muốn Nga là một đối tác đàn em có thể làm phân tán Mỹ và các đồng minh trong khi cung cấp năng lượng và các khoáng sản chính [cho Trung Quốc]. Những người khác cho rằng một nước Nga yếu kém là một bất lợi tiềm tàng đối với Trung Quốc” – ông Chong nói.
Bất kể quan điểm nào được chứng minh là đúng, dường như các vai trò trong cuộc hẹn hò thân mật giữa Mátxcơva và Bắc Kinh giờ đây đã đảo ngược.
Ông Putin có thể muốn đọc một biên bản cuộc họp tại Nhà Trắng vào tháng 6/1980 khi đó Đại sứ Mỹ tại Liên Xô, ông Thomas J. Watson, Jr. đã nói với Tổng thống Jimmy Carter rằng: Theo suy nghĩ của ông “người Trung Quốc có xu hướng nhảy từ giường này sang giường khác” với ý cảnh báo về xu hướng tính toán chiến lược và chính trị của Bắc Kinh.
