
Tình hữu nghị giữa Việt Nam và Nga
đang bị thử thách
Liên minh thời Cộng sản vẫn tiếp tục nhưng Hà Nội đang đa dạng hóa nguồn cung vũ khí và đối tác quốc tế.
Bài viết của Luna Phạm cho RFA
Ngày 4/12/2023
Trên khắp khu vực Đông Nam Á, không quốc gia nào có quan hệ gần gũi và lâu dài với Nga như Việt Nam. Mátxcơva không chỉ là một trong vài đối tác “chiến lược toàn diện” đáng tin cậy mà còn là nhà cung cấp vũ khí chính của Hà Nội trong nhiều thập kỷ.
Tuy nhiên, mối quan hệ “truyền thống và anh em” đặc biệt này đang đứng trước những thử thách nặng nề nhất vì Hà Nội đang cố gắng đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế của mình và thân thiện với phương Tây.
Sáu tàu ngầm Kilo
Không có biểu tượng nào lớn hơn về mối quan hệ quốc phòng ngày phức tạp giữa hai nước như sáu chiếc tàu ngầm tối tân lớp Kilo mà Việt Nam mua của Nga vào tháng 12/2009.
Hợp đồng trị giá hai tỷ đô-la ký bởi ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Việt Nam khi đó, cho tới nay vẫn là thỏa thuận mua vũ khí lớn nhất của nước này từ trước tới nay. Việc mua sắm này cũng kéo theo những nhu cầu bảo trì, bảo dưỡng liên tục và đắt đỏ.
Được mệnh danh là “hố đen” vì khả năng tàng hình của mình, tàu ngầm động cơ diezel-điện được cho là một thứ hàng đắt khách. Tuy nhiên hợp đồng nói trên đã được ký kết và thực hiện nhanh chóng để giúp Việt Nam đáp ứng nhu cầu quốc phòng của mình.
Chỉ trong vòng tám năm, sáu chiếc tàu ngầm này đã được chế tạo và giao đến Căn cứ Hải quân Cam Ranh ở miền Trung Việt Nam – nơi chúng đã nằm lặng lẽ kể từ khi đó. Người ta không được nghe nhiều về những chiếc tàu ngầm này cho đến tháng 7 năm nay khi Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đề cập tới chúng trong cuốn sách về chiến lược quốc phòng Việt Nam mà ông mới xuất bản.
Vietnamese Kilo submarines thread - Largest submarine force in ASEAN with 6 submarines. Dubbed the "black hole" since its so difficult to detect; known to sneak undetected next to aircraft carriers. It has 6 torpedo tubes, carries Russian Kalibr cruise missiles. #Vietnam pic.twitter.com/QlxLTREYOc
— Indo-Pacific News - Geo-Politics & Defense News (@IndoPac_Info) September 29, 2018
“[M]ua sáu tàu ngầm lớp Kilo cùng một lúc không hoàn toàn là lựa chọn tốt nhất nếu nhìn từ góc độ quốc tế, xem xét tính hiệu quả và khả năng răn đe/ngăn chặn” – ông Trọng viết.
Những từ ngữ hiếm hoi nếu không nói là bí hiểm từ nhà lãnh đạo chính trị đứng đầu Việt Nam có thể ám chỉ một số đấu đá nội bộ nhất định nhưng cũng là dấu hiệu cho thấy việc cân nhắc, nhìn nhận lại của Việt Nam đối với Nga trong vai trò là nhà chung cấp thiết bị quân sự chính, thậm chí là duy nhất trong một vài lĩnh vực.
Sự phụ thuộc của Việt Nam vào vũ khí của Nga bắt nguồn từ cuộc Chiến tranh Việt Nam. Theo những nguồn thông tin chính thức, trong giai đoạn từ 1961-1964, Liên Xô đã cung cấp cho miền Bắc Việt Nam một lượng vũ khí và thiết bị quân sự trị giá hơn 200 triệu đô la và đây chính là xương sống của lực lượng hải quân và không quân miền Bắc Việt Nam.
Viện trợ quân sự của Nga cho Việt Nam đã tăng gấp đôi trong năm 1965, lên mức 210 triệu đô la chỉ riêng trong 1 năm và đạt tới 910,7 triệu đô la trong ba năm tiếp theo. Phần lớn vũ khí của Bắc Việt Nam khi đó là từ Liên Xô.
Hà Nội hiện vẫn là khách hàng mua vũ khí lớn nhất của Nga ở khu vực Đông Nam Á, chiếm tới hơn 60% doanh số bán ra cho khu vực này. Theo Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm, trong giai đoạn 1995-2021, Việt Nam đã nhập khẩu số lượng vũ khí và thiết bị quốc phòng trị giá 9,1 tỷ đô la trong đó lượng mua từ Nga đạt tới 7.4 tỷ đô la, tương đương 81,6%.
Ngoài sáu tàu ngầm, các mặt hàng quân sự chính được mua bao gồm: Máy bay đa năng Sukhoi Su-30MK2, tàu hộ vệ lớp Gepard 3.9, tàu tuần tra và tấn công nhanh, xe tăng chiến đấu chủ lực T-90SK và hệ thống tên lửa phòng thủ bờ biển Bastion.
“Sự phụ thuộc vào vũ khí của Nga đã trở nên trầm trọng hơn vì một thực tế là Việt Nam không thể tìm thấy các nguồn nhập khẩu thay thế phù hợp và đáng tin cậy” – ông Lê Hồng Hiệp, điều phối viên Chương trình Nghiên cứu Việt Nam thuộc Viện nghiên cứu ISEAS - Yusof Ishak tại Singapore nhận định trong một bài viết gần đây.
"Vũ khí từ các nước phương Tây nhìn chung đắt hơn vũ khí Nga. Thậm chí ngay cả khi Việt Nam có đủ khả năng chi trả, một số loại vũ khí có thể cũng không có để mua do các lệnh trừng phạt và kiểm soát xuất khẩu" - ông Hiệp viết.
Theo nhà nghiên cứu này, việc Nga cắt giảm bán vũ khí cho các nước trong khu vực kể từ khi Nga xâm lược Ukraine đã “bắt buộc Việt Nam phải tăng tốc việc đa dạng hóa nguồn nhập khẩu vũ khí, thoát khỏi sự phụ thuộc vào Nga”.

Đa dạng hóa
“Mặc dù Quân đội Nhân dân Việt Nam nhiều khả năng sẽ phải phụ thuộc vào các thiết bị được cung cấp từ đầu bởi Nga trong nhiều năm tới, vì nhiều lý do, Hà Nội đã bắt đầu đa dạng hóa việc mua sắm quân sự và giảm bớt sự phụ thuộc vào Nga” – một báo cáo xuất bản trong tháng 3 năm nay của Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế nhận định.
Một cuộc triển lãm vũ khí quốc tế được tổ chức tại Hà Nội vào tháng 12/2022. Phát biểu tại lễ khai mạc, Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính cho biết Triển lãm Quốc phòng Quốc tế Việt Nam 2022 giúp nước này “đa dạng hóa các kênh mua sắm” thiết bị quốc phòng.
Triển lãm cũng nhằm mục đích “giới thiệu năng lực quốc phòng của Việt Nam và các vũ khí do Việt Nam sản xuất tới bạn bè quốc tế” – Thiếu tướng Nguyễn Việt Hùng, Phó Chính ủy Tổng Cục Công nghiệp Quốc phòng nói.
“Việc đa dạng hóa hiện đang diễn ra” – ông Nguyễn Thế Phương, một chuyên gia về quân sự Việt Nam tại Đại học New South Wales (Úc) nói.
“Việt Nam đang quan tâm và làm việc với các quốc gia chế tạo vũ khí khác như Hàn Quốc hay Cộng hòa Czech.”
“Một cách tiếp cận khác là phát triển ngành công nghiệp quốc phòng trong nước vững mạnh và hướng đi này đã mang lại những kết quả bước đầu” – ông Phương nhận định.
“Nhưng đó là mục tiêu mang tính dài hạn. Về ngắn hạn, theo quan điểm của Việt Nam, lựa chọn tốt nhất có thể vẫn là dựa vào nguồn cung của Nga bởi vì [Việt Nam] không có nguồn cung cấp thay thế cho những hạng mục vũ khí quan trọng và có chi phí lớn” – nhà nghiên cứu này nói thêm.
Hãng Reuters đưa tin Việt Nam và Mỹ đang đàm phán việc bán một số máy bay chiến đấu F-16 cho Hà Nội sau khi hai nước thiết lập quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện vào tháng 9 năm nay.
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn tiếp tục theo đuổi việc mua sắm vũ khí quy mô lớn từ Nga. Đài Á Châu Tự Do đã đích mục sở thị một văn bản chính thức do Thủ tướng Phạm Minh Chính ký ngày 27/5/2023 trong đó Việt Nam thông báo với chính phủ Nga về việc quan tâm tới “một khoản cho vay mới của Chính phủ Liên bang Nga để Việt Nam mua vũ khí và thiết bị quân sự do Nga sản xuất”.
Tháng 7 và 8 vừa qua, các quan chức Việt Nam, trong đó có Bộ trưởng Quốc Phòng Phan Văn Giang và Thứ trưởng Quốc phòng Hoàng Xuân Chiến, đã có một số chuyến thăm Nga “để thúc đẩy hợp tác quốc phòng”.
Ông Chiến được trích lời nói rằng Việt Nam chủ trương “nỗ lực hết mức để thực hiện” các kế hoạch đã thống nhất với Nga.
“Việt Nam sẽ luôn ở bên các bạn trong bất cứ hoàn cảnh nào” – ông nói.

Ông Liên Xô
“Theo tôi, có thể nói một cách công bằng rằng Hà Nội và Mátxcơva có một mối quan hệ [gắn bó] đặc biệt, được xây dựng trên nền tảng lịch sử chính trị, ý thức hệ [chung]. Đây cũng là mối quan hệ được phát triển trong một giai đoạn lịch sử quan trọng của Đảng Cộng sản” – ông Jonathan London, một chuyên gia về Việt Nam tại Đại học Leiden (Hà Lan).
“Điều quan trọng là người dân ở Mỹ và trên toàn thế giới cần ghi nhận rằng mối quan hệ này, đương nhiên, là một phần quan trọng và có ý nghĩa trong lịch sử, chính trị, văn hóa chính trị của Việt Nam. Nó không phải là thứ gì đó sẽ biến mất” – ông London nói.
Một tỷ lệ lớn nhân sự của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đã được đào tạo ở Liên Xô cũ. Theo thống kê chính thức, từ năm 1950 đến nay, hơn 50.000 người Việt Nam đã được học tập ở Liên Xô và sau này là Nga. Một số những người này đã rất thành đạt, ví dụ như ông Phạm Nhật Vượng, chủ tịch Vingroup – một tập đoàn kinh tế hàng đầu Việt Nam, hay bà Nguyễn Thị Phương Thảo – Giám đốc Điều hành của hãng hàng không VietJet Air.
Mặc dù không còn học bổng Xô-viết nhưng vẫn có khoảng 6.000 sinh viên Việt Nam hiện đang học tập tại Nga, chủ yếu ở Mátxcơva và St. Petersburg.
Ngoài sinh viên, khoảng 200.000 công nhân nhà máy cũng được gửi sang làm việc ở khắp Liên Xô trong những năm từ 1980 đến 1989. Nhiều người trong số họ vẫn ở lại đây sau khi Liên Xô sụp đổ.

Mối quan hệ này đặc biệt khăng khít trong chiến tranh Việt Nam và thời gian ngay sau đó - khi Liên Xô là quốc gia hỗ trợ duy nhất cho nền kinh tế Việt Nam thời kỳ hậu chiến.
Khoảng 13.500 sỹ quan Việt Nam đã được đào tạo tại các trường và học viện quân sự của Xô-viết và gần 11.000 chuyên gia quân sự Xô-viết đã được cử sang giúp miền Bắc Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh.
Trong năm 1965, Liên Xô đã đồng ý cung cấp viện trợ tài chính, thiết bị quân sự và chuyên gia cho miền Bắc Việt Nam.
Trung Quốc cũng là một đồng minh thời chiến của miền Bắc Việt Nam. Tuy nhiên, ảnh hưởng của Nga chiếm ưu thế hơn trong những năm 1970 và 1980 khi Bắc Kinh và Hà Nội đoạn tuyệt quan hệ sau khi lãnh đạo Việt Nam cáo buộc Trung Quốc “phản bội cách mạng Việt Nam” và “bắt tay với đế quốc Mỹ sau lưng chúng ta”.
Kể từ khi những đội quân cuối cùng của Pháp rời khỏi miền Bắc Việt Nam vào năm 1954, hầu hết người nước ngoài mà người ta nhìn thấy ở những vùng phía trên vĩ tuyến 17 - đường phân định ranh giới giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam – đều đến từ Liên Xô. Cho tới những năm 1990, người Việt Nam vẫn gọi bất kỳ người da trắng nào mà họ gặp trên đường phố là "ông Liên Xô".
Hà Nội có lẽ là thành phố duy nhất bên ngoài Liên Xô cũ vẫn giữ không chỉ tượng Lenin mà còn cả tượng Felix Dzerzhinsky, người đứng đầu và sáng lập ngành an ninh đáng sợ của Xô-viết.

Với sự hiện diện của ba công ty năng lượng quốc doanh Nga là Zarubezhneft, Gazprom và Rosneft, doanh nghiệp Nga vẫn có vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Ngành dầu khí đóng góp khoản doanh thu trị giá hàng nghìn tỷ đồng cho ngân sách nhà nước của Việt Nam và sự hiện diện của các công ty của Nga cũng đã và đang là một chỉ dấu về sự ủng hộ của Nga đối với tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với những vùng biển tranh chấp tại Biển Đông – nơi các công ty dầu khí phương Tây đã rút lui trước sự đe dọa của Trung Quốc.
Với những gắn kết lịch sử và chiến lược mạnh mẽ như vậy, có thể dễ dàng hiểu được vì sao Hà Nội đã có lập trường trung lập và từ chối lên án Nga xâm lược Ukraine hồi tháng 2/2021.
Tuy nhiên đã xuất hiện những chỉ trích đối với lập trường này vì Việt Nam đã mở cửa với phương Tây vì cả mục đích chính trị và kinh tế. Người dân bình thường giờ đây quan tâm nhiều tới đời sống và giáo dục [hiện tại] của họ hơn là các cuộc chiến và các ý thức hệ trong quá khứ.
Và sự thay đổi thái độ này đã trở nên ngày càng rõ ràng và dễ nhận ra hơn. Nhà bình luận chính trị Phạm Gia Minh, người cũng từng học đại học ở Nga nói rằng cuộc chiến ở Ukraine là vấn đề gây chia rẽ, thậm chí ngay cả trong gia đình ông.
“Con trai tôi ủng hộ Ukraine và thường tranh cãi với tôi về Nga. Trong số bạn bè của tôi cũng vậy, có một số người căm ghét Putin và cuộc chiến này”.
Ông Jonathan London từ Đại học Leiden cho rằng cuộc chiến ở Ukraine đã tạo ra những rạn nứt đáng kể trong hệ thống chính trị của Việt nam.
“Tôi nghĩ rằng nhiều người trong hệ thống Đảng và Nhà nước của Việt Nam trước kia vốn có rất nhiều cảm tình và trải nghiệm với nước Nga đã hoàn toàn sửng sốt và phẫn nộ với cuộc chiến này” – ông nói.
“Có sự quan ngại sâu sắc, sự e dè và thậm chí cả sự tức giận trong bộ Quốc phòng Việt Nam, quân đội, giới tinh hoa chính trị.”

Hành động cân bằng của Hà Nội
Giờ đây Hà Nội phải đối diện với thử thách thực sự về làm thế nào để lèo lái giữa các trung tâm quyền lực thế giới như Nga, Trung Quốc, Châu Âu và Mỹ.
“Có lẽ, Mỹ có ảnh hưởng lớn nhất hiện nay, đặc biệt đối với giới trẻ. Nhưng Nga có ảnh hưởng trong vấn đề quân sự và trong thăm dò tài nguyên thiên nhiên, chẳng hạn như dầu khí” – nhà bình luận Phạm Gia Minh nói.
“Vì vậy Hà Nội mong muốn duy trì quan hệ truyền thống với Nga và không phải lựa chọn theo bên nào”.
Các chiến lược gia Việt Nam gần đây bàn về chính sách “ngoại giao cây tre” – một khái niệm ngày càng phổ biến và được yêu thích ở các quốc gia Đông Nam Á. Cây tre trở thành biểu tượng của chính sách ngoại giao [dẻo dai, linh hoạt] vì có khả năng uốn mình theo gió mà không bao giờ gãy.
Giới lãnh đạo Việt Nam đã và đang thúc đẩy phương châm "Là bạn với mọi quốc gia trên thế giới" trong khi vẫn duy trì "Nguyên tắc Ba Không" trong chính sách quốc phòng của mình, bao gồm: Không tham gia vào các liên minh quân sự, không đứng về phía một quốc gia để hành động chống lại một quốc gia khác, và không có căn cứ quân sự nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam.
Thậm chí các chuyến thăm của tàu nước ngoài cũng được chia đều cho các quốc gia đối tác.
“Điều mấu chốt đối với Việt Nam và giới lãnh đạo nước này là làm sao để vun đắp các mối quan hệ một cách khéo léo để thúc đẩy những lợi ích tốt nhất cho họ” – ông London nói.
Cuộc xâm lược Ukraine của Nga đã đặt Việt Nam vào vị thế “một bên là đá tảng, và bên kia là nơi cứng chắc” [tình thế nan giải, khó lựa chọn]” – chuyên gia Việt Nam đã nghỉ hưu của Đại học New South Wales tại Canberra, Úc nói.
Đảng Cộng sản Việt Nam, trong năm 2021, “đã thông qua một chương trình hiện đại hóa quân sự tham vọng nhất trong lịch sử Việt Nam” – ông Thayer nói đồng thời cho biết với 7,4 tỷ đô-la tiền mua vũ khí trong giai đoạn 1995-2021, Nga vẫn đứng đầu danh sách các nhà cung cấp quân sự cho Việt Nam và bỏ xa các quốc gia còn lại trong danh sách.
“Những thách thức chủ yếu với giới lãnh đạo Hà Nội vào thời điểm hiện tại là làm sao tránh được sự trừng phạt của Mỹ và phương Tây đối với việc mua vũ khí và công nghệ quân sự của Nga và duy trì mức tăng trưởng kinh tế cao” – ông Thayer nhận định và thêm rằng: “Vũ khí của phương Tây có thể đắt hơn rất nhiều mà hiệu quả kinh tế lại thấp hơn.”
Đào tạo quân sự cũng là một vấn đề cần phải được giải quyết. Một tỷ lệ lớn nhân sự quân đội của Việt Nam được đào tạo ở Nga và họ sẽ cần phải được đào tạo lại nếu chuyển sang sử dụng vũ khí thiết bị của phương Tây.
“Việt Nam hiện nay đang dành ưu tiên cho việc bảo dưỡng, sửa chữa và đại tu các vũ khí và nền tảng vốn là di sản cũ kỹ của Nga” – ông Thayer nói và nhận định: “Nếu Việt Nam không hành động nhanh, năng lực [quân sự] của họ sẽ suy giảm”.
Podcast - Vietnam: ‘Special relationship’ with Russia under strain
