Lời giới thiệu: Cựu trung tướng Trần Độ, một nhân vật bất đồng chính kiến hàng đầu ở Việt Nam đã qua đời ngày 9 tháng 8 năm 2002 tại Hà Nội sau khi bị bệnh nặng và nằm nhà thương từ nhiều tháng nay. Ông Trần Độ mất đi đã để lại nhiều thương tiếc trong lòng những người quen biết và đồng đội cũ của ông cũng như cả trong hàng ngũ những người trước đây đã chiến đấu chống lại những lực lượng do ông chỉ huy ở miền Nam cũ. Mạnh Hùng lược lại cuộc đời và sự nghiệp của ông...
Ông Trần Độ, tên thật là Tạ Ngọc Phách sinh năm 1923 tại xã Thư Điền, huyện Kiến Xương nay đổi là huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Ông bắt đầu tham gia vào các hoạt động chống Pháp từ năm 1940. Đến năm 1942, ông bị bắt và đưa lên giam ở nhà tù Sơn La cùng với Trường Chinh. Ông gia nhập đảng Cộng Sản Đông Dương từ lúc đó. Ra khỏi tù, ông tham gia vào việc xây dựng các lực lượng quân sự của đảng Cộng Sản trong các năm 1944-1945. Đến cuối năm 1946, khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ông được cử làm chính ủy Trung Đoàn Thủ Đô. Sau đó ông đã lên rất nhanh trong hệ thống quân đội của cộng Sản Việt Nam. Năm 1950, ông được phong làm chính ủy sư đoàn 304. Và năm 1954, ông đã đoạt cờ chién thắng Điện Biên Phủ. Năm sau ông được phong thiếu tướng và cử làm chính ủy quân khu Hữu Ngạn sông Hồng, dưới quyền ông có Lê Đức Anh lúc đó mới mang quân hàm thượng tá. Đến năm 1960, ông được cử vào Ban chấp hành trung ương đảng Lao Động Ờ tên cũ của đảng Cộng Sản Việt Nam và tiếp tục ở trong Ban chấp hành trung ương đảng cho đến năm 1989. Cũng trong thời gian đó ông được cử vào Nam làm chính ủy kiêm tư lệnh phó chiến trường B cho đến năm 1975 khi miền Nam hoàn toàn rơi vào trong tay miền Bắc. Trở lại Hà Nội, ông rời quân đội, làm phó chủ tịch quốc hội cho đến năm 1991. Khị đại hội 6 của đảng Cộng Sản Việt Nam được tổ chức vào năm 1986, ông là một trong những người tích cực nhất trong cuộc vận động ỘĐổi MớiỢ. Là trưởng ban Văn Hóa Văn Nghệ trung ương đảng, ông được coi như là tác giả của Nghị quyết 5 về chính sách văn hóa, văn học và nghệ thuật, thường được gọi là nghị quyết cởi trói cho trí thức và văn nghệ sỹ. Năm 1989, khi các chế độ Cộng Sản tại Đông Âu sụp đổ hàng loạt, Đảng Cộng Sản Việt Nam bắt đầu thi hành chính sách cứng rắn trở lại, ông đã bị buộc tội bảo trợ cho phong trào trí thức và văn nghệ sỹ chống lại đảng. Cùng bị thi hành kỷ luật một lượt với ông là ông Trần Xuân Bách, Ủy viên Bộ chính trị, trưởng ban đối ngoại và sau đó là ông Nguyễn Cơ Thạch.
Sau khi giữ yên lặng một thời gian, năm 1995, ông Trần Độ đã xuất hiện trở lại với lá thư gởi bộ chính trị đề ngày 3 tháng 1 đề nghị thay chế độ chuyên chính vô sản bằng chế độ dân chủ pháp trị. Ôn cũng đưa ra những đề nghị tương tự trong một lá thư khác gởicho Bộ Chính trị ngày 10 tháng 6 năm 1995 trong lúc sửa soạn triệu tập Đại hội 8 của đảng. Hai lá thư này của ông đã bị đảng tố cáo là Cương Lĩnh của một tổ chức chống đảng mà ông là người cầm đầu.
Trong những năm đầu bất đồng chính kiến, ông Trần Độ vẫn còn tin ở khả năng của đảng Cộng Sản Việt Nam có thể tự thay đổi được và ông tập trung vào việc đấu tranh trong nội bộ đảng với những thư và kiến nghị mà thôi. Nhưng càng về sau, thất vọng trước những cố chấp của giới lãnh tụ trong đảng ông đã mở rộng cuộc tranh đấu của mình ra đến bên ngoài, nhằm tạo ra một áp lực khiến đảng phải thay đổi. Điều này đã dẫn đến việc ông bị khai trừ ra khỏi đảng Cộng Sản vào năm 1999.
Tuy rằng sức khỏe rất kém vì bị bệnh tiểu đường nặng và không còn đi đứng được, nhưng trong những năm chót của cuộc đời mình, ông Trần Độ vẫn có gắng viết lên những suy nghĩ của mình trong đó ông bảo vệ lập trường dân chủ và dứt khoát bác bỏ chủ nghĩa Mác Lê. Năm 2001, ông bị công an đến nhà khám xét và tịch thu cuốn hồi ký mà ông đang viết dở dang. Sự kiện này khiến ông bị xúc động mạnh từ đó sức khỏe ông đã bị xấu đi một cách nhanh chóng. Ông đã nhiều lần phải vào bệnh viện điều trị. Và lần cuối cùng này, các bác sỹ đã phải bó tay.
Ông đã từ trần ngày 9 tháng 8 năm 2002 tại Bệnh Viện Hữu Nghị Hà Nội, hưởng thọ 78 tuổi.