Chế độ Dân chủ (I)

Đỗ Quý Toàn - Nguyễn An

Chế độ Dân chủ vừa là ước mơ, vừa là lý tưởng của nhân loại. Làn sóng dân chủ kể từ khi xuất hiện trong lịch sử đã ngày càng lan rộng, và nhiều nhà nghiên cứu đã đồng hoá quá trình dân chủ hoá với đà tiến của thế giới. Nhưng dân chủ cũng bao gồm trong nó nhiều ý kiến khác nhau từ định nghĩa cho đến cách thể hiện.

democracySpain200.jpg
Người đàn ông cầm tấm bảng ghi "Không với ETA, Vâng với Dân Chủ" tại quảng trường San Jaume square ở Barcelona hôm 11-3-2004. AFP PHOTO

Để tìm hiểu những ý niệm căn bản của dân chủ nói chung cũng như những vấn đề liên quan đến dân chủ cho Việt Nam nói riêng, ban Việt ngữ đài Á châu tự do thực hiện nhiều loạt bài ghi lại các cuộc trao đổi và thảo luận với những chuyên gia từ lâu quan tâm đến dân chủ.

Loạt bài mở đầu xin được dành cho nhà báo Đỗ Quý Toàn, chủ bút nhật báo Người Việt phát hành tại California, Hoa kỳ. Kỳ này, ông Toàn trình bày về phong trào dân chủ hoá trên thế giới, qua cuộc trao đổi với BTV Nguyễn An của ban Việt ngữ, mời quý vị theo dõi.

Bài 1: Phong trào dân chủ hoá trên thế giới

Ở Việt Nam hiện nay rất nhiều người đang nói tới việc dân chủ hóa; ngay trong đảng Cộng Sản cũng nói tới nhu cầu dân chủ hóa, bắt đầu là trong sinh hoạt của đảng phải có dân chủ. Đây là một dấu hiệu rât đáng mừng. Vì cả loài người đang hướng về lối sống dân chủ, dân tộc Việt Nam cũng có quyền sống dân chủ để tiến tới một xã hội tự do và hạnh phúc hơn.

Từ những năm cuối thế kỷ 20 đến nay, có rất nhiều quốc gia đã chuyển từ chế độ độc tài sang lối sống dân chủ, giống như một cơn sóng tự do lan tràn trên mặt trái đất. Có thể kể phong trào này bắt đầu từ bán đảo Iberia, Âu châu.

Nước Bồ Đào Nha, sau nhiều năm sống dưới chế độ độc tài, đã thiết lập một bản hiến pháp mới theo chế độ dân chủ đại nghị vào năm 1976, và hai năm sau Tây Ban Nha cũng theo gót. Từ đó, đời sống kinh tế hai quốc gia này đã tiến triển để theo kịp các nước khác ở Tây Âu.

Ở Việt Nam hiện nay rất nhiều người đang nói tới việc dân chủ hóa; ngay trong đảng Cộng Sản cũng nói tới nhu cầu dân chủ hóa, bắt đầu là trong sinh hoạt của đảng phải có dân chủ. Đây là một dấu hiệu rât đáng mừng.

Làn sóng dân chủ đầu tiên

Những năm sau đó, loài người đã chứng kiến làn sóng dân chủ tự do tràn qua các nước ở Đông Âu, Châu Mỹ La tinh, và làn sóng càng mạnh thêm trong số các nước phía Đông châu Á. Làn sóng dân chủ tự do đã giúp cho 60 phần trăm nhân loại đang được sống trong tự do dân chủ.

Nhiều nhà nghiên cứu nhìn thấy trong lịch sử thế giới có nhiều cơn sóng dân chủ tự do nổi lên, lần này là lần thứ ba. Cơn sóng đầu tiên diễn ra vào cuối thế kỷ 18 sang thế kỷ 19 ở Âu châu và Mỹ châu. Đợt sóng này lan ra rất chậm, bắt đầu từ những cuộc cách mạng ở Hoa Kỳ, ở Pháp, dần dần tới những nước Âu châu khác.

Cơn sóng dân chủ đó cũng gặp phải nhiều tảng đá ngầm cản trở, đôi lúc phải dội lại và thoái lui. Có những quốc gia trở thành dân chủ rồi lại thụt lùi trở lại chế độ quân chủ hoặc đế quốc, như ở Pháp, Ý, Đức, vân vân.

Điều này chứng tỏ việc thiết lập thể chế dân chủ bằng cách thông qua một bản hiến pháp thôi không đủ bảo đảm cho người dân được sống tự do thật sự và lâu bền. Trong một bài sau chúng ta sẽ xét coi cần những điều kiện nào để chế độ dân chủ có thể bền vững.

Đợt sóng dân chủ tự do thứ nhì

Đợt sóng dân chủ tự do thứ nhì lan ra trên thế giới sau cuộc đại chiến thứ nhất vào đầu thế kỷ trước, kéo dài cho tới giữa thế kỷ. Một khẩu hiệu được nêu lên là quyền tự quyết dân tộc. Những nước mới giành được độc lập đã quyết định thiết lập một thể chế dân chủ, tự do. Đợt sóng dân chủ tự do thứ nhì cũng gặp những cơn thoái trào.

Chúng ta đã thấy những quốc gia như Đức, Ý, có lúc quay trở lại chế độ độc tài đảng trị, và ở Nga thì cuộc cách mạng dân chủ chưa được một năm đã rơi vào nội chiến để tiến tới một thể chế độc tài kéo dài hơn 70 năm. Sau Thế chiến thứ hai, nhiều nước cựu thuộc địa đã giành được cũng thiết lập các chế độ dân chủ, tuy nhiên thế giới bước ngay vào thời kỳ chiến tranh lạnh khiến cho trong cả hai khối tư bản và cộng sản người ta có khuynh hướng duy trì các chế độ độc tài để đối phó lẫn nhau.

Những nước đứng giáp đường giới tuyến của hai khối càng khó thay đổi. Bên khối tư bản, các nước như Hàn quốc, Đài Loan, Singapore, Thái Lan, Phi Luật Tân, Indonesia vân vân, khó tiến bước trên đường dân chủ hóa vì họ bị họ đe dọa trực tiếp với những phong trào nổi dậy ngay ở trong nước, khiến cho các chính quyền độc đoán có lý do kìm hãm sự phát triển của các quyền tự do chính trị và tự do dân sự.

Việc thiết lập thể chế dân chủ bằng cách thông qua một bản hiến pháp thôi không đủ bảo đảm cho người dân được sống tự do thật sự và lâu bền. Trong một bài sau chúng ta sẽ xét coi cần những điều kiện nào để chế độ dân chủ có thể bền vững.

Cơn sóng dân chủ tự do thứ ba

Cơn sóng dân chủ tự do thứ ba trong lịch sử chỉ khởi sự trào lên khi chiến tranh lạnh cũng bắt đầu bớt căng thẳng. Lúc đầu là Liên Xô và Mỹ thương thuyết chính sách hòa dịu, rồi Mỹ với Trung Quốc gặp gỡ bắt tay nhau, thế giới chung quanh nhìn thấy nên cũng thay đổi. Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha có thể xóa bỏ chế độ độc tài vì cả hai nước đứng trong khối tư bản nhưng không bị đe dọa của những phong trào theo chủ nghĩa cộng sản.

Dân chúng ở những nước Đài Loan, Hàn quốc, Thái Lan, Phi Luật Tân, nhất là sinh viên, thanh niên đã từng đấu tranh gắt gao từ thập niên 1970, nhưng họ cũng chỉ bắt đầu được hưởng tự do từ giữa thâp niên 70, sau khi tình hình thế giới biến chuyển hòa dịu hơn và mối đe dọa giảm bớt. Nhiều quốc gia khác phải đợi cho tới khi gặp khủng hoảng mới thật sự dân chủ hóa.

Ở Trung Âu và Đông Âu trong những năm 1980, đó là tình hình kinh tế trì trệ ngay trong khối Xô viết, các phong trào công đoàn ở Ba Lan và xã hội công dân ở Tiệp Khắc đưa tới sự sụp đổ của bức tường Berlin. Ở Á Đông, cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997 đã thúc đẩy cho tiến trình dân chủ hóa bước những bước nhanh chóng và vững vàng. Các chế độ còn vết tích độc đoán ở Hàn quốc, Đài Loan, Indonesia bị lật đổ bằng lá phiếu, cũng nhờ lúc đó chiến tranh lạnh gữa hai khối tư bản và cộng sản đã chấm dứt.

Hiện tượng kinh tế toàn cầu hội nhập

Làn sóng dân chủ hóa thứ ba này đi đôi với hiện tượng kinh tế toàn cầu hội nhập với nhau chặt chẽ hơn, đưa tới việc cải thiện mức sống và giảm bớt nạn nghèo đói trên thế giới. Một thước đo của sự cải thiện này là tỷ lệ những người còn sống với lợi tức dưới 2 đô la Mỹ một ngày, khoảng 30 ngàn đồng Việt Nam cho mỗi người, vào năm 2005.

Vào năm 1980 trên thế giới có 56 phần trăm nhân loại còn sống trong cảnh nghèo như vậy, đến năm 2000 tỷ số đó chỉ còn 23 phần trăm. Nếu nhớ rằng dân số trên trái đất luôn luôn gia tăng chúng ta càng thấy sự cải thiện rất đáng kể. Vào năm 1980 thế giới có 1 triệu 9 người sống trong cảnh nghèo, năm 1990 chỉ còn 1 triệu 7, đến năm 2000 chỉ còn một triệu mốt. Một điều đáng chú ý nữa là trước năm 1980, trước khi làn sóng dân chủ lan tràn, số người sống trong cảnh nghèo theo định nghĩa trên chỉ tăng thêm chứ không giảm.

Sự cải thiện trong đời sống kinh tế đi đôi với phong trào dân chủ hóa cho thấy khi người dân được tự do hơn, trong đó có những quyền tự do kinh tế, thì loài người cũng được no ấm nhiều hơn. Từ năm 1980, theo báo cáo của Ủy hội Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, có 81 quốc gia đã tiến bước trên đường dân chủ hóa đáng kể, trong đó có 33 nước đổi từ chế độ quân phiệt sang chế độ dân chủ. Có 140 quốc gia trong số khoảng 200 nước trong thế giới hiện đã có bầu cử tương đối tự do, và 81 quốc gia trong số đó thực sự có tự do, tức là khoảng 60 phần trăm nhân loại.

Cơn sóng dân chủ hóa thứ ba cũng gặp những trở ngại, có lúc quay ngược chiều và không lan rộng đồng đều ra các nước chung quanh. Có những quốc gia đã thiết lập thể chế dân chủ sau đó lại rơi xuống trở về sống dưới một chính quyền độc tài, như ở Peru, Pakistan. Điều này cho thấy những điều kiện thúc nay một quốc gia tiến tới chế độ dân chủ khác với những điều kiện để nôi dưỡng cho chế độ dân chủ được vững bền. Làn sóng dân chủ cũng bị ngăn lại ở nhiều nơi.

Làn sóng dân chủ hóa thứ ba này đi đôi với hiện tượng kinh tế toàn cầu hội nhập với nhau chặt chẽ hơn, đưa tới việc cải thiện mức sống và giảm bớt nạn nghèo đói trên thế giới. Một thước đo của sự cải thiện này là tỷ lệ những người còn sống với lợi tức dưới 2 đô la Mỹ một ngày, khoảng 30 ngàn đồng Việt Nam cho mỗi người, vào năm 2005.

Dân chủ hình thức

Trong số những nước thuộc Liên bang Xô viết cũ, nhiều nước vẫn cưỡng lại làn sóng dân chủ. Ở Á Đông thì Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Miến Điện vẫn chưa có tự do tuyển cử. Lại có những quốc gia thiết lập một chế độ dân chủ hình thức nhưng người dân vẫn chưa được tự do, như ở nhiều nước Trung Á.

Chúng ta thấy dân chủ hình thức, tức là có hiến pháp, có tuyển cử không nhất thiết đưa tới có dân chủ tự do thật sự nếu người dân chưa được hưởng những quyền tự do chính trị và tự do dân sự. Trong những bài tới, chúng ta sẽ thử đặt những câu hỏi như: Thế nào là chế độ dân chủ, và khi nào thì dân chủ và tự do đi đôi với nhau. Xin kính chào quý vị thính giả và cảm ơn quý vị đã lắng nghe câu chuyện hôm nay.

Vừa rồi là cuộc trao đổi giữa nhà báo Đỗ Quý Toàn và biên tập viên Nguyễn An về phong trào dân chủ hoá trên thế giới. Đề tài thảo luận kỳ tới sẽ là, Thế nào là dân chủ, mong quý thính giả đón nghe.

Xin được nhắc rằng, ý kiến của nhà báo Đỗ Quý Toàn không nhất thiết phản ánh quan điểm của ban Việt ngữ đài Á châu tự do, và chúng tôi hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp thêm vào vấn đề này từ quý thính giả. Xin gửi E mail về Vietnamse@www.rfa.org hay gọi đến 202 530 7775.