Thanh Trúc, phóng viên đài RFA
Hôm nay là ngày nước Mỹ để tang cựu tổng thống Gerald Ford. Ông được nhớ tới qua một số diễn biến chính trị, nhưng nổi bật là về cuộc chiến tranh Việt Nam và những hệ lụy của nó. Riêng với người Việt hải ngoại thì rất biết ơn ông Ford đã lo liệu cho các chương trình tỵ nạn và định cư ở Hoa Kỳ.

Ông là nhà lãnh đạo Mỹ cuối cùng có liên quan trực tiếp đến chiến tranh Việt Nam vào hồi kết thúc, cố gắng giải quyết những gì còn có thể làm, nhằm giảm thiểu đau thương, hàn gắn đổ vỡ. Cụ thể, ông đã nỗ lực hết sức, đi ngược giòng chảy để thu nhận hàng trăm ngàn người Việt tỵ nạn.
Hồi năm 1997 xuất hiện trong loạt phỏng vấn do hệ thống truyền hình CNN thực hiện, Tổng thống Gerald Ford đã nêu lên thất bại của chính phủ Nixon tại hiệp định Paris 1973, trong đó, Bắc Việt cam kết rút hết lực lượng võ trang của họ ra khỏi miền Nam.
Thế nhưng chính phủ Nixon đã không làm gì được hữu hiệu hơn là phản đối xuông, khi các cam kết đó bị Hà Nội hủy bỏ bằng cách chơi chữ, đổi tên thành lực lượng võ trang thuộc Mặt trận Giải phóng Miền Nam, tức của người miền Nam theo như danh xưng.
Vẫn trong cuộc phỏng vấn với CNN, ông Ford cho biết một diễn tiến không may khác đã xảy ra đồng thời. Đó là việc Quốc hội không chuẩn thuận cấp quân viện cho chính phủ miền Nam Việt Nam. Ông nói "trong những hòan cảnh đó, việc Sàigòn sụp đổ là không thể nào tránh khỏi". Năm 1990, trong cuộc thảo luận về chiến tranh Việt Nam, cựu Tổng thống Gerald Ford nói cầu mong không có một vị Tổng thống Hoa Kỳ nào khác sẽ phải đối diện với những quyết định nghiêm trọng như vậy. Rằng ông vẫn tưởng nhớ những người kém may mắn đã không rời khỏi Việt Nam được, và ông ngỏ lời cảm ơn nước Mỹ đã cho định cư hơn 130 ngàn người tỵ nạn Việt Nam, vì nếu không, nước Mỹ còn phải chịu nhục nhã về đạo đức.

Nhiều năm sau khi chiến cuộc Việt Nam kết thúc, trong một lá thư gởi nhóm binh sĩ Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ phụ trách di tản tòa đại sứ của họ tại Sàigòn, cựu Tổng thống Gerald Ford viết "tháng Tư năm 1975 quả là tháng tàn ác nhất. Thời gian trôi qua không làm tôi bớt đi những đau đớn, những buồn bã nhất trong cuộc đời công bộc của tôi".
Khi miền Nam sụp đổ, hàng trăm ngàn người bỏ nước tìm tự do, thì công luận Hoa Kỳ lúc đó không chút nào thiện cảm với làn sóng người tỵ nạn đến từ nơi mà họ mất hàng chục ngàn thanh niên ưu tú, hàng trăm triệu đôla quân viện uổng phí và một gánh nặng trong tâm tư về trách nhiệm đạo đức.
Tháng Năm năm 1975, với tỷ lệ thất nghiệp trên mười mấy phần trăm trong một xã hội phân hóa rã rời vì cuộc chiến Việt Nam, thì rõ ràng là người Mỹ chưa sẵn sàng để đón hàng tram7 người Việt tỵ nạn.
Trong cuốn sách tựa đề "Nước mắt trước cơn mưa" của nhà văn Larry Engelman, bà Julia Vadala Taft, người đứng đầu cơ quan liên ngành phụ trách định cư người tỵ nạn, kể lại rằng "Tân thống đốc California Jerry Brown rất quan ngại về việc người tỵ nạn định cư trong bang của ông. Ông còn định ngăn cấm phi cơ chở người Việt tỵ nạn đáp xuống sân bay quân sự Travis ở gần thủ phủ Sacramento. Ủy viên Y tế và Nhân sự bang California Mario Obledo cũng lo ngại về việc phải đón nhận con số tỵ nạn đông đảo đó".
"Tuy nhiên các người tỵ nạn Việt Nam rất may mắn là có sự thông cảm của giới chức cao cấp nhất lúc bấy giờ là Tổng thống Gerald Ford".
Một người từ Việt Nam cùng gia đình qua Mỹ ngay sau tháng Tư 1975, ông Trần Thái Văn, nay là dân biểu quận hạt 68 miền Nam bang California, hồi tưởng lại việc làm của tổng thống Gerald Ford lúc bấy giờ đối với người tỵ nạn Việt Nam.
Kể từ tháng Năm năm 1975, Tổng thống Gerald Ford đi khắp nơi để thăm viếng các trại tỵ nạn của người Việt Nam, ra lệnh tạo mọi thuận lợi cho hàng chục ngàn gia đình tái lập cuộc đời mới trên tòan bộ 50 tiểu bang của Hoa Kỳ. Họ được huấn luyện nghề nghiệp, được trợ cấp, được đi học trở lại.
Lễ Giáng sinh năm 1975, tất cả các trại tỵ nạn đóng cửa và hàng trăm ngàn người Việt Nam tỵ nạn đã hòa nhập vào giòng chảy sinh động của nước Mỹ. Bảy tháng sau khi chiến tranh kết thúc.
Đó là di sản lớn nhất của ông Gerald Ford đối với cộng đồng người Việt tại Mỹ, mà cho tới nay đã lên tới hàng triệu người.