Nguyễn An, phóng viên đài RFA
Thưa quý thính giả, tuần trước, chúng tôi đã giới thiệu cùng quý vị bộ Việt Sử Đại Cương của soạn giả Trần Gia Phụng, do nhà xuất bản Non Nuớc ở Toronto, Canada vừa ấn hành đến tập thứ ba, trong tổng số năm tập của bộ sách. Ông Trần Gia Phụng tốt nghiệp cử nhân giáo khoa Sử trường Đại học Văn Khoa và trường Đại học Sư phạm Huế.

Ông định cư tại Canada từ năm 1995 và trong vòng 11 năm qua, đã xuất bản 17 tựa sách, đều là những nghiên cứu về Sử Việt Nam. Trong số này, cuốn “Án tích Cộng sản Việt Nam” đã đựơc trao tặng giải thưởng Văn học năm 2002 của Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do. Tạp chí Văn Học Nghệ Thuật kỳ này mời quý vị nghe cuộc phỏng vấn sử gia Trần Gia Phụng, do Nguyễn An thực hiện.
Nguyễn An: Khi trả lời ông Võ Triều Sơn của hãng thông tấn VNN ở California tháng sáu năm 2004 về lý do biên soạn bộ Việt sử Đại cương, ông có nói là "các bộ sử cũ của các tác giả Trần Trọng Kim, Phạm Văn Sơn, Phan Xuân Hoà đều đã xuất bản trên 40 năm," khi nguồn tài liệu chưa dồi dào như bây giờ, nên bộ VSĐC là cơ hội để ông "bổ túc thêm những sử phẩm cũ."
Ông có thể cho biết những tư liệu mà ông đã bổ túc không? Xin nói về những tìm tòi mới mà ông hài lòng hơn cả.?
Con chim Lạc
Trần Gia Phụng: Thưa anh Nguyễn An, thưa quý thính giả nghe đài. Nói về tư liệu bổ túc thêm thì nhiều lắm, nhưng rải rác mỗi sách một ít chứ không tập trung vào thành một bộ sử về Việt Nam. Do đó, kể lại sẽ mất nhiều thì giờ. Mọi chi tiết trích dẫn tôi đều ghi chú dưới mỗi chương, nên bạn đọc sẽ dễ thấy ngay.
Riêng phần những tìm tòi mà tôi hài lòng, thì thuộc vào những giai đọan lịch sử chưa được rõ ràng. Ví dụ về cổ sử. Những vị học giả trước đây đều cho rằng chữ “Lạc” trong “Lạc Việt” là con chim lạc. Tôi đã đi tìm con chim lạc trong thực tế, nhưng ở Nam cũng như Bắc Việt Nam đều không có con chim lạc.
Tôi liền đi tìm theo hướng khác. Khi đọc các sách ngọai ngữ, như các sách tiếng Anh chẳng hạn, người ta phiên âm chữ Lạc Việt là Lo-Yueh. Như người ta phiên âm chữ Lạc Dương là Loyang. Từ chữ “lo” nầy, tôi mới nhớ ra chữ Lạc chẳng qua là tiếng phiêm âm của các sách Trung Hoa, rồi mình đọc tiếng Hoa theo âm Việt của mình.
Tôi đi tìm con chim lạc trong từ điển, từ tự điển của Alexandre de Rhodes, qua các tự điển cổ khác như tự điển Hùynh Tịnh Của, Tự điển Khai Trí Tiến Đức, đến tự điển của Lê Ngọc Trụ, rồi các bộ tự điển ngày nay ở trong nước, cũng không có con chim lạc.
Trong thực tế và trên sách vở, nước mình không có con chim lạc, thế thì tại sao lại gọi Lạc trong Lạc Việt là con chim Lạc?
Tôi liền đi tìm theo hướng khác. Khi đọc các sách ngọai ngữ, như các sách tiếng Anh chẳng hạn, người ta phiên âm chữ Lạc Việt là Lo-Yueh. Như người ta phiên âm chữ Lạc Dương là Loyang. Từ chữ “lo” nầy, tôi mới nhớ ra chữ Lạc chẳng qua là tiếng phiêm âm của các sách Trung Hoa, rồi mình đọc tiếng Hoa theo âm Việt của mình.
Ví dụ tên Washington, người Hoa đọc là “Hỏa shỉn tơn”, viết ra tiếng Hoa, mà người Việt đọc là “Hoa Thạnh Đốn”. Đi tìm chữ “Hoa” trong Hoa Thạnh Đốn thật là vô nghĩa, vì nó chỉ là tiếng phiên âm. Vậy phải tìm hiểu theo âm tiếng phiên âm.
Đọc theo âm tiếng phiên âm của chữ Lạc là “Lo”. Chữ “lo”hay “ló” trong tiếng Việt nghĩa là “lúa”. Rồi tôi nghĩ đến câu viết trong sách Giao Châu ngọai vực ký, xuất hiện vào khỏang thế kỷ thứ 3 hay thứ 4 bên Trung Hoa, viết về cổ Việt, được dịch ra tiếng Việt như sau: “Hồi xưa, chưa có quận huyện, thì Lạc điền tùy theo thủy triều lên xuống mà cày cấy.
Người có ruộng ấy gọi là Lạc dân, người cai quản dân là Lạc vương…” Như thế chữ “Lạc” trên sách vở bắt đầu từ “Lạc điền”, tức ruộng lạc, rồi “Lạc dân”, tức dân sống về ruộng lạc, đến Lạc vương là người cai quản những dân sống về ruộng lạc. Vậy Ruộng lạc là ruộng lúa, có lý hơn là ruộng chim lạc.
Cứ thế, tôi tiếp tục đi tìm và tôi rất thích thú khi thấy các sách bằng tiếng Anh do các tác giả Hoa Kỳ nổi tiếng viết, đã cho rằng ngày xưa, dân Trung Hoa sống ở lưu vực Hòang Hà chưa trồng lúa nước, mà chỉ trồng lúa mì, kê... Các sách đó còn nói rằng Đức Khổng Tử chưa ăn cơm, chỉ ăn kê mà thôi.
Tôi càng thích thú hơn khi những khám phá mới cho rằng khu vực trồng lúa nước đầu tiên trên thế giới là Đông Nam Á, và trung tâm chính của lúa nước ở ĐNÁ là vùng Hòa Bình của chúng ta, nơi đó chính là vùng phát tích của tổ tiên chúng ta.

Những phát hiện thích thú
Nguyễn An: Phải chăng là từ chuyện này mà anh nêu ý kiến rằng không có chuyện người Trung Hoa dậy dân ta cách trồng lúa như đã ghi trong các sách sử trước đây?
Trần Gia Phụng: Thưa anh Nguyễn An. Từ chuyện chữ Lạc, tôi nghĩ rằng người Trung Hoa ngày xưa chưa trồng lúa nước, làm sao Nhâm Diên (năm 25 SCN) lại dạy dân mình trồng lúa nước như trong các sách trước đây, kể cả sách của Trần Trọng Kim đã viết? Tôi lại đi tìm tiếp, thế là phát hiện những điều mới khác. Tôi kể nữa thì mất thời giờ lắm.
Tôi thích thú với những phát hiện như chuyện Nhâm Diên, Tích Quang, chuyện Hai Bà Trưng, và cả chuyện Lê Long Đĩnh. Tôi xin lưu ý anh, Lê Long Đĩnh là một minh quân chứ không hôn ám như sử cũ viết. Thời kỳ trung sử, cận sử, và hiện sử cũng có nhiều điều cần phải điều chỉnh. Nhất là thời kỳ Hồ Chí Minh, lại cần phải viết lại cho đúng, chứ không phải như hiện nay trong nước đã viết.
Nguyễn An: Những điều đó sẽ được bàn tới trong tập 5 của bộ sách, phải không anh?
Trần Gia Phụng: Vâng.
Nhìn lại từng vấn đề lịch sử
Nguyễn An: Trong lời bạt ở cuối tập 1 bộ Việt sử Đại cương, ông Hoàng Đình Hiếu nhận xét rằng "tác giả Trần Gia Phụng đã tìm cách nhìn lại từng vấn đề lịch sử ở những chỗ chưa có lời giải thích thoả đáng, để tìm lại mạch diễn tiến của lịch sử hay tương quan nhân quả giữa các yếu tố."
Ông có đồng ý với các nhận xét đó không, và nếu có, ông có thể nêu một số thí dụ cụ thể để minh hoạ không-những thí dụ mà ông tâm đắc hơn cả.?
Trần Gia Phụng: Thưa anh An. Anh Hoàng Đình Hiếu tốt nghiệp Cử nhân giáo khoa sử khoảng cùng thời với tôi ở Đại học Văn khoa Huế. Mỗi khi viết bài xong, tôi gởi nhờ anh Hiếu đọc, sửa lại và góp ý.
Thế là mình hiểu việc Nhâm Diên chỉ là việc tuyên truyền. Từ đó, chúng ta phải đặt lại vấn đề mà các sách cũ đã viết là Nhâm Diên và Tích Quang giáo hóa dân Việt chúng ta. Thật ra, Nhâm Diên và Tích Quang buộc dân Việt khi cưới hỏi, phải theo phong tục Trung Hoa, ghi tên vào sổ hộ do người Trung Hoa quản lý, để họ vừa kiểm sóat an ninh, vừa thu thuế hộ.
Anh thương tôi thì viết thế, chứ tôi không biết tôi có đáp ứng đúng những lời anh viết như thế hay không? Tuy nhiên, quả thật thì tôi nghĩ rằng mỗi sự kiện lịch sử không thể đơn độc, từ trên trời rơi xuống; mà mỗi sự kiện lịch sử đều nằm trong một hệ thống tương quan nhân quả với nhau.
Người viết sử chẳng những phải cố gắng trình bày quá khứ như quá khứ đã xảy ra, mà còn phải trình bày tương quan nhân quả giữa các sự kiện đã xảy ra trong quá khứ, để người đọc dễ nắm bắt các vấn đề lịch sử. Ví dụ, khi tôi thưa rằng người Trung Hoa không trồng lúa nước, thì tôi nghĩ ngay làm sao họ dạy mình trồng lúa nước?
Thế là mình hiểu việc Nhâm Diên chỉ là việc tuyên truyền. Từ đó, chúng ta phải đặt lại vấn đề mà các sách cũ đã viết là Nhâm Diên và Tích Quang giáo hóa dân Việt chúng ta. Thật ra, Nhâm Diên và Tích Quang buộc dân Việt khi cưới hỏi, phải theo phong tục Trung Hoa, ghi tên vào sổ hộ do người Trung Hoa quản lý, để họ vừa kiểm sóat an ninh, vừa thu thuế hộ.
Để cho quý thính giả dễ hình dung, tôi lấy những ví dụ gần đây. Ví dụ ngày 9-3-1945, Nhật đảo chánh Pháp ở Đông Dương. Quân Nhật đến Đông Dương từ năm 1940, 1941, sao đến 1945 mới đảo chánh? Nguyên do khi quân Nhật mới đến, ở Âu Châu, chính phủ Pháp đầu hàng Đức. Nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương trực thuộc chánh phủ Pháp.
Nhật không sợ người Pháp ở Đông Dương trở mặt vì Nhật là đồng minh của Đức. Tuy nhiên, vào tháng 8-1944, De Gaulle lãnh dạo chính phủ Pháp Tự do, trở về Paris. Nhật lo ngại ở Đông Dương, nhà cầm quyền Pháp sẽ vâng lệnh De Gaulle, mở cửa Đông Dương cho quân Đồng minh vào, nên Nhật đảo chánh Pháp, nắm quyền cai trị Đông Dương, để chuẩn bị rút lui.
Liên lạc
Nguyễn An: Nếu có độc giả muốn hỏi thêm ông về những chi tiết liên quan đến bộ VSDC của ông, thì họ sẽ liên lạc với ông thế nào?
Trần Gia Phụng: Trước khi trả lời câu nầy, tôi xin có một lời cuối như sau: sự tìm hiểu, nghiên cứu không bao giờ chấm dứt trong sử học cũng như trong các bộ môn khoa học khác. Tôi mong rằng trong tương lai, sẽ có những công trình nghiên cứu tiếp theo soi sáng hơn nữa lịch sử nước nhà, để có thể giúp các thế hệ thanh niên hiểu rõ, biết rõ lịch sử của dân tộc chúng ta.
Tôi xin cảm ơn anh Nguyễn An, cảm ơn quý thính giả. Quý vị có thể liên lạc với tôi qua số phone 416-652-0686, hay e-mail phungtrangia@yahoo.com, và địa chỉ là: P.O.Box 63015, 1655 Dufferin Street, Toronto, ON. M6H-4H8, CANADA.
Xin kính chào anh Nguyễn An và kính chào quý thính giả nghe đài.
Nguyễn An: Cảm ơn ông Trần Gia Phụng.
Theo dòng câu chuyện:
- Điểm bộ sách Việt Sử Đại Cương của tác giả Trần Gia Phụng (phần 1)