Di chúc Doha

Nguyễn Xuân Nghĩa & Việt Long, RFA

Vòng đàm phán Doha để mở rộng ngoại thương cho các nước nghèo trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới WTO đã tan vỡ tháng trước, vì lý do chính là chế độ bảo hộ nông nghiệp của các nước giàu. Hậu quả của việc ấy sẽ ra sao với các nước đang phát triển như Việt Nam? Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu vấn đề này qua cuộc trao đổi cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa, do Việt Long thực hiện sau đây hầu quý thính giả.

Việt Long: Thưa ông Nguyễn Xuân Nghĩa, tiếp tục loạt bài từ mấy kỳ vừa qua về việc vòng đàm phán Doha của tổ chức WTO bị tan vỡ, chúng tôi đề nghị là kỳ này chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về hậu quả. Câu hỏi đầu tiên là liệu có thực rằng vòng đàm phán Doha này vị tan vỡ và hết còn hy vọng cứu vãn gì được hay không?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Tôi không mấy tin vào phép lạ và sự giác ngộ của lãnh đạo của các nước đã phát triển. Lần trước, các nước có vòng đàm phán Uruguay phát động vào Tháng Chín năm 1986 từ hội nghị tại Punta del Este của xứ Uruguay và kéo dài gần tám năm, cũng với những thời mấp mé khủng hoảng và tan vỡ, nhưng sau đó đã thành công vào Tháng Tư năm 1994, với kết quả là lập ra tổ chức WTO thay thế hệ thống General Agreement on Tariffs and Trade, là hệ thống thỏa ước chung giữa 125 quốc gia về thuế biểu và thương mại. WTO ra đời từ đó.

Việt Long: Xin hỏi ông ngay, là nếu vòng Uruguay mất gần tám năm mới hoàn tất để tạo ra một bước chuyển biến quan trọng trong luồng giao dịch mua bán của các nước, thì tại sao vòng Doha lại không được như vậy?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Tôi nhìn thấy hai lý do gần và xa xoay quanh hai khối kinh tế đã gây đổ vỡ cho vòng Doha là Hoa Kỳ và Âu châu. Gần là khả năng thương thuyết của các chính quyền tại Hoa Kỳ và Âu châu. Xa là khung cảnh chiến tranh và mâu thuẫn toàn cầu.

Trước tiên, tại Hoa Kỳ và Âu châu, khuynh hướng bảo hộ mậu dịch đang thắng thế trong chính trường, với thế lực quá mạnh và đầy bất công của các nhóm áp lực về nông nghiệp. Hoa Kỳ có đạo luật Thương mại năm 2002 mà chính quyền của Tổng thống George W. Bush đã chật vật vận động và tranh đấu mãi mới được, theo đó, Hành pháp có rộng quyền thương thảo về mậu dịch và chuyển qua Quốc hội phê duyệt kết quả theo thủ tục nhanh gọn là chấp nhận trọn vẹn các hiệp định thương mại hay không.

Đạo luật gọi là thủ tục ngoại thương nhanh gọn ấy sẽ hết hạn vào cuối tháng Sáu năm tới. Kể từ đấy, Quốc hội Mỹ sẽ cứu xét mọi hiệp định theo từng điều khoản một và có thể đòi tu chính, sửa đổi, khiến mọi việc thỏa thuận đã hoàn tất sẽ phải được thương thuyết lại. Với tư thế chính trị sa sút hiện nay vì hồ sơ Iraq trước một Quốc hội có xu hướng bảo hộ mậu dịch mạnh hơn và có khi còn thay đổi sau cuộc bầu cử tháng 11 này, Tổng thống Bush khó yêu cầu Quốc hội lại cho mình rộng quyền thương thảo về mậu dịch như trong mấy năm qua, căn cứ trên đạo luật về thẩm quyền ngoại thương 2002.

Bên kia Đại Tây Dương, năm tới đây, các nước Âu châu cũng sẽ có bầu cử, nhất là bầu cử tại Pháp là quốc gia đòi duy trì chế độ trợ cấp nông nghiệp mạnh nhất, cho nên các chính khách đều phải lấy lòng cử tri mà không chịu nhượng bộ thêm về ngoại thương. Vì vậy, năm tới đây chưa chắc các nước đã khai thông được vòng Doha. Năm 2008, lại có bầu cử tổng thống tại Mỹ và trong một năm bầu cử thì chẳng ai dám để mất phiếu một thành phần cử tri nào cả.

Việt Long: Đó là lý do gần, còn lý do xa?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Dường như người ta quên rằng thế giới đang ở trong thời kỳ chiến tranh, một loại chiến tranh đặc biệt và lan rộng qua mọi biên cương quốc gia vì xu hướng Hồi giáo quá khích, thuộc cả hai hệ phái Sunni và Shia. Chiến tranh sẽ chỉ tăng chứ không giảm nên ưu tiên của lãnh đạo các nước sẽ dồn vào việc đó, kể cả phản ứng và những đòn phép của nhiều xứ chống lại Hoa Kỳ lẫn đối phó với hậu quả suy sụp về kinh tế toàn cầu.

Trong hoàn cảnh đó, việc cắt giảm trợ cấp nông nghiệp tại các nước giàu để cứu giúp các nước nghèo càng ít được chú ý và chấp hành. Các nước sẽ giao dịch mua bán với nhau theo khuôn khổ của từng thỏa ước thương mại song phương hơn là những quy định chung sẽ khó đạt trong cơ chế quốc tế của WTO.

Việt Long: Bây giờ nói về hậu quả, nếu vòng đàm phán Doha thực sự tan vỡ thì những chuyện gì sẽ xảy ra?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Các nước tiếp tục phát triển ngoại thương với nhau nhưng sẽ tranh đấu rất mạnh để tranh thủ quyền lợi của mình qua các hiệp định thương mại song phương hay cấp vùng, nghĩa là trong phạm vi của từng khối kinh tế. Vì vậy, hậu quả của Doha không nhất thiết là sự suy sụp trong khối lượng hàng hoá các nước sẽ mua bán với nhau.

Tuy nhiên, di chúc của Doha là khu vực canh nông và nông nghiệp của các nước nghèo sẽ bị thiệt hại nhất vì chế độ bảo hộ nông nghiệp của các nước giàu. Chẳng những khó bán nông phẩm cho các nước giàu lại còn bị các nước giàu cạnh tranh rất mạnh trong khu vực nghèo đói nhất của nền kinh tế và của xã hội.

Hậu quả chung cuộc là các khu vực biến chế công nghiệp và dịch vụ tiếp tục tăng trưởng nhờ trao đổi tự do nhưng khu vực nông nghiệp lạc hậu của các nước nghèo lại bị thiệt thòi và bị bỏ rơi trong đà toàn cầu hoá của kinh tế thế giới. Và động loạn xã hội càng dễ xảy ra. Nhiều người sẽ càng chống toàn cầu hóa, càng thù ghét các nước công nghiệp Tây phương, nhiều khu ổ chuột sẽ bành trướng ở các vùng ven đô, ở ngoại ô thành thị và đấy sẽ lại là môi trường phát sinh khủng bố nếu được tiếp tế võ khí và tiếp nhận những tư tưởng cực đoan quá khích.

Việt Long: Ông vui lòng phân tích thêm điều này, vì điều ông dự đoán nghe ra rất là tiêu cực.

Nguyễn Xuân Nghĩa: Đầu đuôi là sự lệch lạc trong cơ chế ngoại thương giữa các nước khiến chế độ trợ cấp nông sản cho một thiểu số ở các nước giàu nhất gây thiệt hại nhiều nhất cho một đa số nghèo nhất của các nước nghèo. Giới kinh tế nói tới phần đóng góp ngày càng ít hơn của nông nghiệp trong luồng trao đổi toàn cầu, từ gần 40% cách đây nửa thế kỷ nay chỉ còn ở khoảng 7%. Tính theo tổng sản lượng của thế giới thì nông nghiệp chỉ chiếm có 4% mà thôi, nhưng là khu vực nuôi sống đa số dân chúng tại các nước nghèo.

Chế độ bảo hộ nông nghiệp của các nước giàu khiến phía giàu có xuất khẩu nông sản nhiều và nhanh hơn các nước nghèo, và gần hai chục nước giàu nhất thế giới trong khối OECD một năm lại trợ cấp đến 240 tỷ Mỹ kim cho nông gia của họ.

Tại các nước nghèo, thành phần sống nhờ nông nghiệp ở tại nông thôn vẫn chiếm đa số, tại Việt Nam là hơn 75% dân số. Họ hưởng lợi nhờ kinh tế tự do và nhờ toàn cầu hóa không bằng thành phần thị dân hoạt động trong hai khu vực công nghiệp và dịch vụ, vốn là hai khu vực có tốc độ tăng trưởng cao hơn. Hậu quả là hiện tượng đô thị hoá tự phát, người dân tại nông thôn phải chạy vào thành phố kiếm ăn và sống trong những khu ổ chuột tồi tàn, trong những điều kiện cùng khốn mà họ thấy là bất công. Vòng Doha dự tính phá vỡ cái vòng luẩn quẩn khắc nghiệt ấy mà không thành cho nên nông thôn các nước nghèo sẽ bị hậu quả nặng nề nhất.

Việt Long: Bắt đầu nói vào trường hợp Việt Nam, thì ông thấy những hậu quả ra sao?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Trước tiên, ta phải nói về hiện trạng, sau đó mới là chuyện gia nhập WTO trong cơ chế lệch lạc về mậu dịch nông sản. Việt Nam cũng giống như Trung Quốc, đang được lãnh đạo bởi một đảng tự xưng là xã hội chủ nghĩa mà lại có chính sách ít xã hội nhất, trong ý nghĩa là ít chú ý đến đa số bình dân nghèo túng. Thiểu số cầm quyền là thiểu số nhặm lẹ tiến vào kinh tế thị trường và toàn cầu nhờ đó kiếm lợi nhiều nhất cho bản thân, phần còn lại thì rơi vãi cho người dân.

So với thời trước khi đổi mới thì cuộc sống có thay đổi, mức sống có gia tăng. Nhưng, đa số sống tại nông thôn lại không được như vậy nên họ phải dồn vào thành phố kiếm sống và hiện tượng tự phát ấy gây ra rất nhiều vấn đề xã hội mà báo chí nói tới ngày một nhiều hơn. Việt Nam có bị hiện tượng đô thị hoá hỗn loạn như hầu hết các nước nghèo, nhưng còn lãnh thêm cái họa của “định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Việt Long: Ông gọi chính sách định hướng xã hội chủ nghĩa là "cái hoạ" thì chính sách đó có hậu quả thề nào đối với đời sống nông dân?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Nhà nông của ta không có những thông tin và kiến thức hiện đại về canh nông và thương mại. Họ chỉ có sức lao động và coi việc lấy công làm lãi là quy luật sống. Từ khi chính quyền chấm dứt chế độ hợp tác hoá của thời chủ quan duy ý chí, nông dân có thêm một yếu tố đáng kể là đất đai, nhưng đất đai vẫn thuộc quyền quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa khiến đảng viên cán bộ có quyền cướp đất để công nghiệp hoá và đô thị hoá.

Chúng ta đang thấy tái diễn hiện tượng đại điền chủ của thời phong kiến, nhưng được đổi mới, đại điền chủ ngày nay là đảng viên doanh gia, làm chủ những trang trại lớn và dùng quyền thế của mình để bồi thường quyền sử dụng đất một cách bất công. Đấy là một hiện tượng tham nhũng hợp pháp khiến dân chúng phải biểu tình khiếu kiện từ nhiều năm nay mà đảng và nhà nước không hề giải quyết.

Việt Long: Đã gọi là tham nhũng thì tại sao lại còn tham nhũng hợp pháp?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Việt Nam có một chế độ thực tế là đảng viên tham nhũng cho đảng vì đảng không hoạt động công khai với ngân sách hay quỹ đảng được thông báo minh bạch như đảng phái chính trị ở các xứ khác. Chỉ khi nào đảng viên tham nhũng cho đảng rồi nhân đó tham nhũng cho riêng mình với một tỷ lệ "không phải đạo" vì quá lớn, thì nội vụ mới được đảng cho phép báo chí tiết lộ và các cơ quan hữu trách điều tra.

Chuyện đảng viên ở địa phương cướp đất của dân để đầu cơ về địa ốc hoặc thành lập công ty liên doanh với nước ngoài là phù hợp với chính sách ở trên, nên nông dân có biểu tình hay tự thiêu thì ở trên vẫn làm ngơ.

Việt Long: Những nhận xét của ông nghe có vẻ khá chủ quan, do đó chúng tôi có hai câu hỏi thứ nhất, là liệu những đảng cầm quyền ở những nước như Việt Nam và Trung Quốc có cần tới "quỹ đảng" như những đảng chính trị ở các nước tự do không? Và thứ hai là ông có chứng cứ nào cho những điều vừa trình bày không?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Bây giờ chúng ta có lẽ không còn nhiều thì giờ cho buổi hôm nay, nên để kỳ sau tôi sẽ trả lời những câu hỏi này.

Việt Long: Câu hỏi cuối cùng là một khi việc Việt Nam gia nhập được vào WTO thì những hậu quả của việc vòng đàm phán Doha đổ vỡ đối với Việt Nam có thay đổi được chút nào không?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Có thay đổi khi thiểu số có chức có quyền bị cạnh tranh và người ta phải vén khéo hơn trong cách sung dụng tài nguyên và công sản. Nhưng riêng với nông dân thì tình hình sẽ thay đổi rất chậm vì quyền lợi của họ vẫn không được bảo vệ, mà họ lại gặp sự cạnh tranh rất mạnh của nước ngoài, của nông phẩm hay hàng chế biến gốc nông nghiệp của nước ngoài.

Điều kinh khủng nhất là qua năm tới, Việt Nam sẽ bị chi phối bởi một hệ thống luật lệ quốc tế còn lớn hơn luật lệ của đảng và nhà nước mà đa số người dân vẫn chưa biết gì về những luật lệ ấy, và càng chưa biết về cách ứng phó hay khai thác sao cho có lợi. Rốt cuộc thì một thiểu số ở thành thị sẽ biết sớm nhất, kiếm lợi nhiều nhất và đa số trong thiểu số may mắn này lại là đảng viên cán bộ nhà nước. Chúng ta sẽ còn có dịp quay trở về đề tài này…