Tiến bộ khoa học cùng với việc phát minh các công nghệ mới trong thế kỷ 20 đã cho ra đời nhiều ứng dụng hầu thỏa mãn nhu cầu mà con người cần đến hay nghĩ đến. Con người ngày càng chìm đắm trong những khám phá mới, tìm thêm nhu cầu mới, dù cần thiết hay không cần thiết cho cuộc sống.
Bấm vào đây để nghe tiết mục này
Rightclick to download this audio
Cuộc chạy đua do chính con người đặt ra dừơng như không có điểm đến! Và hơn nữa, cuộc đua nầy càng kích thích thêm tham vọng ngự trị của con người, càng làm tăng thêm ngã vọng đến một mức độ khó kềm chế nỗi.
Với các khả năng khoa học hiện có, con người hầu như làm chủ thiên nhiên trong việc chế tạo các sản phẩm mới để phục vụ cho nhu cầu của nhân loại... Đôi khi những nhu cầu đó hoàn toàn không cần thiết và vô ích nếu không nói là làm thoái hóa thêm quá trình phát triển của con người.
Nguyễn An: Theo quan điểm của Tiến sĩ thì hậu quả của việc đòi làm chủ thiên nhiên của con người đã tạo ra những xáo trộn trong xã hội như thế nào?
Tiến sĩ Mai Thanh Truyết: Sự cân bằng của vạn vật đã được sắp xếp theo một thứ tự nào đó của thiên nhiên. Từ ngàn năm trước nếu nhìn lại, khi khoa học chưa phát triển nhiều và con người có một hiểu biết rất hạn chế, thiên nhiên vẫn ưu đải và tạo dựng ra một đời sống tương đối an lành cho con người. Số mầm bịnh không nhiều so với hiện tại, và sự xuất hiện những mầm bịnh mới chính là sản phẩm của khoa học và con người.
Con người đã lạm dụng khoa học, và với mặc cảm tự tôn, họ tin rằng sẽ chiến thắng được thiên nhiên, kiểm soát thiên nhiên, và luôn cố gắng thỏa mãn lòng kiêu hãnh của mình qua việc chinh phục thiên nhiên.
Tuy nhiên, sau cùng rồi, thiên nhiên đã đáp lại rằng, hãy còn quá nhiều ẩn số mà con người chưa thể giải đáp được! Thiên nhiên đã vận hành tuần hoàn, có chu kỳ thời tiết mưa, nắng, bão, lụt...cho từng khu vực trước kia; nhưng hôm nay, con người đã làm đão lộn các chu kỳ trên một cách không kiểm soát nổi!
Nguyễn An: Các hiện tượng tuần hoàn của thiên nhiên đã bị đão lộn như sao, xin Tiến sĩ nêu ra thí dụ cụ thể?
Tiến sĩ Mai Thanh Truyết: Như anh đã biết, hiện tựơng hạn hán, bão lụt xẩy ra thừơng xuyên hơn không còn theo một chu kỳ tuần hoàn nào có thể tiên liệu như trước kia cách đây vài thập niên nữa. Bầu khí quyển tiếp tục nóng dần và có khuynh hướng tăng trưởng nhanh hơn theo thời gian. El Nino là hiện tượng nước biển bị hâm nóng theo chu kỳ tự nhiên khoãng tám đến mười năm vào các thập niên trước; nay chu kỳ trên đã bị thu ngắn lại còn khoảng 4 - 5 năm và không có những dấu hiệu báo trước rõ ràng như xưa nữa. Tóm lại, con người càng thách thức thiên nhiên càng phải gánh thêm nhiều hậu quả không thể lường trước đựơc!
Nguyễn An: Trước những hiểm họa mà Tiến sĩ vứa nêu trên, chúng ta đang đi vào bế tắc hay sao?
Tiến sĩ Mai Thanh Truyết: Không hẳn như vậy thưa anh, chúng ta vẫn còn có lối ra hay một giải pháp nếu chúng ta biết suy nghĩ lại. Do đó, công việc truy tìm một phương hướng để giải quyết vấn đề ô nhiểm hiện nay quả là một nan đề cho bất cứ nhà khoa học nào có lương tâm và có một tầm nhìn đúng đắn về dự phóng tương lai. Dùng khoa học hay kỹ thuật thuần túy để giải quyết ô nhiểm môi trường đã gặp những bế tắc vì con người đã và đang đi vào một chu kỳ không lối thoát do việc xử lý và tái tạo ô nhiểm vẫn tiếp diễn liên tục. Cho nên, nguyên lý dùng thiên nhiên trong triết lý Sinh Diệt của Phật giáo để giải quyết các vấn nạn của thiên nhiên sẽ là một suy nghiệm căn bản và cấp bách và có thể được xem như là một căn bản vững chắc cho mọi phương pháp xử lý ô nhiểm môi trường trong hiện tại và tương lai.
Nguyễn An: Xin ngắt lời Tiến sĩ, Tiến sĩ đã đi sâu vào triết lý của Phật giáo rồi phải không?
Tiến sĩ Mai Thanh Truyết: Thưa anh không, chúng tôi muốn nói đến sự hài hòa tự nhiên của thiên nhiên. Và trong chiều hướng đó, các nhà khoa học đã tìm về thiên nhiên để suy nghiệm và giải lý từ các chu kỳ tuần hoàn của cây cỏ để đưa ra các phương pháp thích nghi cho việc xử lý ô nhiểm môi trường. Nguyên lý SINH - DIÊT của Phật giáo có thể đem ra áp dụng ở trường hợp nầy để mang lại sự cân bằng cho hai nhu cầu trên. Vì vậy, trong thiên niên kỷ thứ ba nầy, nhiệm vụ chính yếu của các nhà làm khoa học trên thế giới là: 1- phải tập trung trí tuệ để bảo vệ và tái tạo sự tuần hòan nguyên thủy của thiên nhiên, 2- nghiên cứu những công nghệ sạch để thay thế nguồn các năng lượng đang xử dụng hiện tại, 3- truy tìm các giải pháp thiên nhiên để giải quyết vấn nạn ô nhiểm trên thế giới.
Nguyễn An: Đã có những kết quả cụ thể nào khi các nhà khoa học thực hiện 3 nhiệm vụ vừa kễ trên hay không, thưa Tiến sĩ?
Tiến sĩ Mai Thanh Truyết: Những thành quả ban đầu trong việc làm sạch bầu khí quyển, phục hoạt đất và duy trì nguồn nước sạch đã được bắt đầu và có những thành tựu đáng kễ sau đây.
Trước tiên là vấn đề làm sạch bầu khí quyển. Trong quá trình sản xuất năng lượng cho nhu cầu của con người trên thế giới, thán khí hay carbon dioxide (CO2) đã được thải hồi vào không khí do việc thiêu đốt than, dầu khí, khói xe, nhà máy v. v.. . Và thán khí là một thành tố quan trọng nhất trong việc góp phần vào sự hâm nóng tòan cầu. Theo Cơ quan bảo vệ môi trường Hoa kỳ (EPA) và Bộ năng lượng (DOE), kễ từ khi cách mạng kỹ nghệ tơàn cầu bắt đầu khoảng 200 năm trước đây thì lượng thán được khí thải hồi vào bầu khí quyển tăng từ 280 mg/L lên 370 mg/L. Hoa kỳ cũng đã ước tính trong vòng 20 năm tới, lượng khí nầy sẽ tăng lên 43%. Do đó, nhu cầu thiết yếu hiện tại là phải tìm một phương cách tối ưu để giảm thiểu lượng thán khí nầy.
Nguyễn An: Đó là phương pháp nào thưa Tiến sĩ?
Tiến sĩ Mai Thanh Truyết: Nguyên tắc căn bản được các nhà khoa học lưu ý đến là làm cách nào "nhốt" thán khí lại và chuyển hoá khí nầy thành than và nước. Nhiều phương pháp đang được thí nghiệm như sau:
1- Thán khí sẽ được bơm vào phía dưới các lớp đất đá nằm sâu trong lòng đất, hoặc bơm vào các rừng rậm để cho cây cỏ hấp thụ và biến cải thành oxy và carbon.
2- Thán khí từ các nhà máy sẽ được hoá lỏng và bơm thẳng vào lòng biển sâu độ 1000 mét xuyên qua hệ thống có chứa chất sắt để tạo ra nguồn "phân bón" cho các loài phytoplankton như phiêu, tảo, và vi khuẩn sống trong nước biển có khả năng đồng hóa diệp lục tố như cây cỏ trong không khí. Các sinh vật nầy sẽ hấp thụ thán khí và phóng thích dưởng khí (O2) vào nước biển. Phương pháp nầy đã được đem vào ứng dụng ở vài nơi khi nghị định thư Kyoto ra đời năm 1997.
Nguyễn An: Còn việc biến cải đất đai thì sao?
Tiến sĩ Mai Thanh Truyết: Từ hơn một thập niên trở lại đây, việc nghiên cứu các vi khuẩn có khả năng hấp thụ các chất hữu cơ và kim loaị độc hại phế thải trong kỹ nghệ là mục tiêu cấp bách của các khoa học gia trên thế giới.
Năm 1994, Terry Hazen đã dùng kỹ thuật thổi mạnh vi khuẩn trộn lẫn với các khí (bio-sparging) vào lòng đất sâu dưới đáy sông Savannath, South Carolina vì nơi đây đã bị ô nhiểm trichloroethylene (TCE), một dung môi căn bản dùng trong việc rữa dầu mở bám vào máy móc. Vi khuẩn xử dụng có tên là Methylo sinus trichosporium được trộn lẫn với khí methane có công dụng biến cải TCE thành thán khí. Chỉ trong vòng 2 năm, phương pháp sinh thoái hóa nầy (bio-degradation) đã làm sạch lòng sông kễ trên.
Một khám phá mới nhất nữa vừa được công bố vào tháng 4/04 do 2 Tiến sĩ Ravi Nadu và Mallavarapu Megharaj thuộc viện đại học South Australia sau khi nghiên cứu phương pháp xử lý DDT trong trầm tích bằng rong biển. Hai ông đã chứng minh rong xanh Ulva và rong đỏ Gelidium có khả năng khử 80% lượng DDT trong đất trong vòng 8 tuần lễ qua phản ứng sinh thoái hoá giữa rong, DDT, và vi khuẩn.
Nguyễn An: Còn việc xử lý nước sinh hoạt đã diễn ra như thế nào nếu áp dụng phương pháp thiên nhiên, thưa Tiến sĩ?
Tiến sĩ Mai Thanh Truyết: Hiện tại, các nhà khoa học áp dụng tính hấp thụ và hấp thu của cây cỏ đê giải quyết vấn đề nầy thưa anh. Như cây hướng dương có khả năng hấp thụ phóng xạ trong nước và đất đã được dùng để biến cải vùng đất ô nhiểm sau tai nạn ở nhà máy nguyên tử ở Chernobyl, Ukraine. Một loại cỏ ở vùng Alpine có khả năng hấp thụ kẽm trong đất. Cây bạch dương (poplar) hấp thụ TCE, tetrachloro methane.. . Một loài sậỵ duckweed hấp thụ nitrate, hoá chất sau nầy là do dư lượng của việc bón phân quá tải trong nông nghiệp.
Cây bồ tạt (mustard) thuộc họ Thlaspi goesingense có khả năng hóa giải nickel. Lena Q. Ma thuộc đại học Florida đã thành công trong việc dùng cây dương xỉ Pteris Vittata để hấp thụ arsenic trong đất. Chúng tôi cũng đã từng thí nghiệm với cây dương xỉ thuộc ho Nephrolepis Obliterata bằng cách bơm lượng arsenic vào trong đất, và sau một tuần lễ phân tích lượng arsenic còn lại trong đất và lượng hóa chất nầy trong lá cây. Kết quả rất khích lệ. Cây dương xỉ thuộc họ Rán nầy đã mọc dọc theo sông rạch miền Nam Việt Nam và đã được người dân ĐBSCL dùng làm rau ghém trộn lẫn các rau khác.
Nguyễn An: Qua những phân tích và lý giải thú vị của Tiến sĩ về việc áp dụng thiên nhiên để hoá giải những vấn nạn môi trường, theo ý kiến riêng của Tiến sĩ thì quan niệm nầy có thể đem lại kết quả cho thế giới trong tương lai hay không?
Tiến sĩ Mai Thanh Truyết: Chúng ta đang ở vào thiên niên kỷ thứ ba, hiện tại, con người có hai nhu cầu chính yếu: 1/ nhu cầu phát triển và sản xuất sản phẩm để sinh tồn, và 2/ nhu cầu giải quyết các phụ phế phẩm để làm sạch môi trừờng do nhu cầu phát triển tạo ra. Hai nhu cầu nầy cần phải đựơc tính toán để có được sự cân bằng môi trường và phải được thử nghiệm kỹ lưỡng để khỏi bị trấn áp lẫn nhau vì bất cứ lý do gì.
Tiến trình làm sạch thiên nhiên, trả lại thiên nhiên những nguồn nước trong lành, bầu khí quyển tươi mát, bảo vệ những cánh rừng nơi trú ngụ của các thú vật sắp bị tiệt chũng, bớt phí phạm những nguồn tài nguyên thiên nhiên trên thế giới nhất là nguồn nước ngọt... là bổn phận và trách nhiệm của mọi người trên hành tinh nầy. Con người đã từng tự nhận là một sinh vật thượng đẳng do đó không thể từ chối bổn phận trên được.
Nếu ý thức được những bổn phận và trách nhiệm trên mỗi người trong chúng ta sẽ biết gìn giữ và bão vệ môi trường sống chung quanh mình, đó là một phương cách an toàn và nhân bản nhất để có một cuộc hành trình tốt đẹp và an bình nhất vào thiên kỷ thứ ba. Và hơn nữa, có làm được như thế, chúng ta mới hoàn trả lại một phần nào món nợ mà chúng ta đã vay mượn trước của các thế hệ sau do việc đã làm suy thoái môi trường và phí phạm tài nguyên trong quá trình phát triển kỹ nghệ để phục vụ con người trong suốt thời gian qua. Chúng tôi hy vọng con người sẽ làm được điều nầy.