VN có thể xây thêm 300-400 nhà máy thủy điện

RFA
2017.10.17
hoho.jpg Nhà máy thủy điện Hố Hô (Hà Tĩnh) xả lũ.
Courtesy of news.zing.vn

Truyền thông trong nước ngày 9/10 vừa qua dẫn lời đại diện Hiệp hội Năng lượng Việt Nam nói rằng nếu Việt Nam cho khai thác thêm 300-400 dự án thủy điện nhỏ và vừa thì sẽ góp phần bổ sung nguồn điện thiếu hụt trong các năm tới cho đất nước.

Tác động môi trường và con người

Tại Hội nghị toàn quốc về phát triển thủy điện vừa và nhỏ, năng lượng tái tạo do Bộ Công Thương tổ chức hôm 9/10, ông Trần Viết Ngãi, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam nói rằng hiện nay Việt Nam đang phải đối mặt với nguồn năng lượng hóa thạch cạn kiệt như than, khí đốt. Trong khi đó đến năm 2020 Việt Nam phải tìm ra các nguồn điện bổ sung cho lượng thiếu hụt khoảng 100 tỷ kWh và con số này sẽ lên đến 300 tỷ kWh vào năm 20130.

Vì vậy ông Ngãi đề xuất tiếp tục khai thác thủy điện vừa và nhỏ vì chúng mang lại hiệu quả kinh tế và có công suất điện khá cao.

RFA trao đổi với Thạc sĩ Nguyễn Huỳnh Thuật, một chuyên gia về môi trường, cũng là người đã vận động thành công việc hủy bỏ hai dự án thủy điện lớn trên sông Đồng Nai vì những tác động tai hại đến khu vực rừng quốc gia Nam Cát Tiên. Quan điểm của ông là phản đối việc phá rừng để xây dựng nhà máy thủy điện. Lý do ông đưa ra là ảnh hưởng đến hệ sinh thái:

Nếu làm thủy điện ở những vùng có rừng thì mình sẽ phá rừng để hi sinh làm thủy điện. Các dòng sông làm thủy điện có độ dốc tương đối cao và đa số những nơi đó là còn rừng. Nếu làm như vậy mình phải hi sinh môi trường, đặc biệt là đa dạng sinh học. Rừng không chỉ là cây như chúng ta nhìn vào mà còn nhiều loài khác nhau. Khi mình phá rừng, tổng thể hệ sinh thái phục vụ cho con người, và các loài khác trong chuỗi mắt xích sẽ bị phá hủy. Như vậy sẽ đe dọa đến sự tồn vong của loài người.

Khi không có nắng, không có gió là phải dùng Khi mình phá rừng, tổng thể hệ sinh thái phục vụ cho con người, và các loài khác trong chuỗi mắt xích sẽ bị phá hủy.
lượng dự trữ hoặc các nguồn năng lượng khác như nhiệt điện than, thủy điện để phát điện.
- Thạc sĩ Nguyễn Huỳnh Thuật

Ông nói gần đây Việt Nam xảy ra nhiều trận hán hán, lũ lụt lịch sử mà nguyên nhân một phần lớn là do nạn phá rừng.

Trận lũ lụt đầu tháng 10 vừa qua đã khiến hơn 70 người thiệt mạng, hơn 200 ngôi nhà bị sụp đổ, hơn 40 ngàn ngôi nhà bị ngập, hơn 9000 gia súc và hàng trăm ngàn gia cầm chết đuối. Việt Nam gọi đây là trận lụt lịch sử trong tháng 10 ở Việt Nam.

Phó Giáo sư - Tiến sĩ Lê Anh Tuấn, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu, thuộc Đại học Cần Thơ cho biết nguồn thủy năng ở Việt Nam hiện nay đã gần cạn kiệt. Nếu làm thêm nhà máy thủy điện thì khả năng lớn là trên các sông suối nhỏ:

Tại vì mình không nắm được các hồ sơ đó nên không biết những nhà máy thủy điện vừa và nhỏ nằm ở đâu, chiếm bao nhiêu diện tích và bao nhiêu rừng sẽ bị phá để phục vụ chuyện này.

Tôi nghĩ từ 300-400 là nhiều lắm.

Mặc dù hiện tại dự án cụ thể của các nhà máy thủy điện này chưa được công bố nhưng Tiến sĩ Lê Anh Tuấn nói rằng khả năng lớn sẽ được xây dựng ở các khu rừng núi hiểm trở bởi vì ở những địa hình dễ làm Việt Nam đều đã cho tiến hành xây dựng.

Ông nói rằng hiện tại rất khó đánh giá tác động cụ thể của các nhà máy này bởi vì chưa có một thông tin nào được công bố. Tuy nhiên theo ông, các nhà máy thủy điện bấy lâu nay đã để lại cho Việt Nam nhiều bài học về tác động môi trường và con người, mặc dù chúng cung cấp một lượng lớn điện năng cho cả nước:

Nó có nhiều vấn đề về môi trường, xã hội, ngoài yếu tố về kinh tế. Ví dụ chuyện di dân, những người sống ở khu vực lòng hồ sẽ phải di dân. Mà thường thường sẽ di chuyển đến chỗ khó khăn hơn chỗ ở cũ. Rồi vấn đề về tái định cư, và sinh kế của người dân ở đó bởi vì họ sống ở dưới thung lũng thì họ dễ dàng canh tác, bắt cá nhưng khi di dời, theo khảo sát của tôi, thì cuộc sống của họ khó khăn hơn rất nhiều.

Ngoài ra những hồ chứa như vậy phải hi sinh rất nhiều đất rừng. Mà rừng ở Việt Nam càng ngày càng thu hẹp và chất lượng không còn dồi dào như ngày xưa nữa. Nếu tiếp tục xây dựng thủy điện thì diện tích rừng càng ngày càng ít dần.

Ngoài ra, ông cho biết hồ chứa thủy điện sẽ giữ lại phần lớn phù sa trên sông, sẽ làm cho vùng hạ lưu gặp nhiều khó khăn hơn trong việc tiếp nhận phù sa. Bên cạnh đó sẽ cản đường di cư của các loài cá, hay ảnh hưởng đến vấn đề giao thông thủy trên sông.

Một vấn đề quan trọng nữa ông nêu ra đó là khi nhà máy thủy điện vận hành sẽ làm thay đổi các đặc điểm dòng chảy của sông. Dòng sông có lúc phải tích nước lại, có lúc phải xả nước nhiều, chứ không được chảy liên tục như trước đó.

Thạc sĩ Nguyễn Huỳnh Thuật bổ sung thêm rằng việc xây dựng đập thủy điện có thể ảnh hưởng đến cuộc sống, văn hóa của người bản địa, đẩy họ vào tình thế vốn đã cô lập nay còn bị tổn thương hơn. Vô hình chung điều này sẽ ảnh hưởng đến tình hình ổn định chính trị để phát triển đất nước.

Một nguy cơ khác có thể xảy ra nếu phát triển quá nhiều nhà máy thủy điện, ông nói tiếp:

Đặc biệt ở Việt Nam luôn làm thiếu tính hệ thống. Vừa rồi ở Lào có vụ việc vỡ đập thủy điện. Nếu đập thủy điện bị vỡ như vậy sẽ tác động đến các đập khác, gây ra hiện tượng vỡ đập liên hoàn. Như vậy người dân ở vùng sâu sẽ không sơ tán kịp và nhiều người sẽ chìm trong vùng lụt, phải chịu mất mát về cả tính mạng con người và của cái vật chất.

Trong buổi Hội nghị về phát triển thủy điện nêu trên, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam cũng nói rằng nếu Việt Nam có xây thêm nhà máy thủy điện thì cần hạn chế tối đa phá hoại rừng và phải có quy trình chặt chẽ trong việc xây dựng và vận hành hồ chứa.

Xây dựng đập Xayaburi trên sông Mekong hôm 22/1/2014.
Xây dựng đập Xayaburi trên sông Mekong hôm 22/1/2014.
AFP

Có khả thi?

Thủy điện là vấn đề gây nhiều tranh luận trong mấy năm trở lại đây. Tại miền Trung cứ đến mùa mưa lũ là các đập thủy điện lại xả lũ vì sợ vỡ đập. Điều này gây ra hiện tượng lũ chồng lũ ở khu vực vốn đã chịu nhiều thiên tai nhất trên cả nước. Những đợt xả lũ như vậy gây nhiều thiệt hại về vật chất và thậm chí là tính mạng của người dân.

Riêng tại Việt Nam hiện nay chưa có những nghiên cứu đầy đủ về tác động của các đập nước lớn như Sông Đà và Trị An, nhưng ngày càng có nhiều lo ngại về các đập thủy điện trên thượng nguồn sông Mekong ở Lào và Trung Quốc, một ngày nào đó sẽ kết liễu sự sống của đồng bằng sông Cửu Long. Tháng 5 vừa qua, các chuyên gia Việt Nam đã lên tiếng yêu cầu hoãn dự án thủy điện Pắc Beng ở Lào để bảo vệ 20 triệu dân Đồng bằng sông Cửu Long.

Tuy nhiên, cũng có nhiều quan điểm bảo vệ ngành thủy điện. Ngay trong buổi hội nghị, Phó vụ trưởng Vụ Thủy điện, Bộ Công Thương, ông Phan Duy Phú cho rằng, thủy điện nhỏ và vừa là nguồn tài nguyên quý giá của quốc gia, là nguồn năng lượng sạch, có khả năng tái tạo và cần được khai thác hợp lý. Hay ông Bùi Thế, Phó giám đốc Sở Công Thương Lâm Đồng nói rằng các công trình thủy điện đã giúp tỉnh này phát triển kinh tế trong thời gian qua.

Trước đó Bộ Công Thương cũng từng đưa ra đánh giá rằng thủy điện nhỏ và vừa có nhiều lợi ích như cung cấp năng lượng, giúp đỡ nông nghiệp, mang lại công ăn việc làm cho dân,…

Tiến sĩ Lê Anh Tuấn nói rằng bây giờ còn quá sớm để đánh giá liệu việc xây dựng 300-400 nhà máy thủy điện có khả thi hay không:

Bởi vì số lượng lớn như vậy thì có thể có một số nhà máy khả thi. Nhưng khả thi cho cái gì mới được? Ví dụ khả thi về mặt kinh tế nhưng đôi khi không khả thi về mặt môi trường hay mặt xã hội. Nên phải có hồ sơ mới đánh giá được tính khoa học, khả thi hay tính bền vững,… Ví dụ nhà máy đó đặt ở vị trí phù hợp hay không, điều kiện nước có bảo đảm hay không, phải hi sinh bao nhiêu rừng, và bao nhiêu người dân phải di tản.

Rồi vấn đề về tái định cư, và sinh kế của người dân ở đó bởi vì họ sống ở dưới thung lũng thì họ dễ dàng canh tác, bắt cá nhưng khi di dời, theo khảo sát của tôi, thì cuộc sống của họ khó khăn hơn rất nhiều.
TS. Lê Anh Tuấn

Thạc sĩ Nguyễn Huỳnh Thuật lại có cái nhìn khác. Ông cho rằng việc xây thêm số lượng lớn nhà máy thủy điện như vậy sẽ không khả thi khi đưa vào thực tiễn. Ông giải thích:

Quan điểm của Hiệp hội Năng lượng hay Bộ Công thương có thể cho là khả thi. Nhưng khi đưa ra thực tiễn sẽ không khả thi.

Ví dụ đơn giản như hai dự án thủy điện Đồng Nai 6 và 6A, đã được Chính phủ đưa vào quy hoạch từ năm 2001 cho đến năm 2011 là 10 năm. Nhưng đến 2012 Thủ tướng vẫn phải rút lại.

Nó không khả thi ngoài thực tế vì dân những vùng đó sẽ phản đối và công luận cũng sẽ phản đối khi môi trường tự nhiên bị hi sinh để làm thủy điện.

Tiến sĩ Lê Tuấn Anh nói rằng bản thân ông không phản đối thủy điện, nhưng với điều kiện là phải cân nhắc thật kỹ lưỡng những tác động nó mang lại. Ông cho rằng Việt Nam cũng nên cân nhắc các nguồn năng lượng khác thân thiện với môi trường mà giá thành ngày càng rẻ như năng lượng gió, mặt trời, thay vì cứ chú trọng đầu tư thủy điện truyền thống.

Trong khi đó, tại Hội nghị, Vụ trưởng Vụ Năng lượng Tái tạo ông Phạm Trọng Thực lại nói rằng thực tế năng lượng tái tạo chỉ đủ cung cấp thêm cho nguồn điện chứ không thể thay thế các nguồn khác. Khi không có nắng, không có gió là phải dùng năng lượng dự trữ hoặc các nguồn năng lượng khác như nhiệt điện than, thủy điện để phát điện.

Những ý kiến các chuyên gia đưa ra dẫn đến một câu hỏi rằng liệu Việt Nam có xem xét trận lũ lụt lịch sử này khi đưa ra quyết định xây thêm đập thủy điện hay không? Và liệu Nhà nước có thảo luận công khai với người dân tại những khu vực được chọn xây nhà máy hay không?

Nhận xét

Bạn có thể đưa ý kiến của mình vào khung phía dưới. Ý kiến của Bạn sẽ được xem xét trước khi đưa lên trang web, phù hợp với Nguyên tắc sử dụng của RFA. Ý kiến của Bạn sẽ không xuất hiện ngay lập tức. RFA không chịu trách nhiệm về nội dung các ý kiến. Hãy vui lòng tôn trọng các quan điểm khác biệt cũng như căn cứ vào các dữ kiện của vấn đề.