Điều này có nghĩa là có khoảng 600.000 ước mơ được bước vào cổng trường đại học ở Việt Nam đã không thành hiện thực. Liệu những em học sinh này còn có thể có cơ hội được bước vào cổng trường đại học hay đó vẫn chỉ là ước mơ mà thôi?
Ứơc mơ không thành
Đã hơn một tuần kể từ sau khi bộ Giáo dục và Đào tạo công bố điểm sàn thi vào các trường đại học và cao đẳng, Nguyễn Thị Kim Thoa, cô học sinh 18 của vùng đất Phú Yên, vừa dự thi vào đại học thủy sản Nha trang, vẫn còn rất buồn vì cô đã không đỗ trong kỳ thi lần này. Đối với Thoa, đỗ đại học là cơ hội duy nhất mà cô có lúc này để trở thành kỹ sư và giã từ công việc đồng áng vất vả mà cha mẹ cô cả đời gắn bó. Nhưng có lẽ ước mơ đó của cô năm nay vẫn chưa thành hiện thực. Và cùng với cô là khoảng 600.000 thí sinh khác có điểm thi không đạt mức sàn mà Bộ giáo dục và đào tạo quy định.
Ta có hơn 80 triệu dân và mới có được 1 triệu rưỡi học sinh. Một đất nước có tỷ lệ sinh viên như vậy thì không phát triển tốt được.
GS Võ Thế Lực
Theo con số thống kê của Bộ giáo dục và đào tạo, năm nay Việt Nam có gần 1 triệu 600 ngàn thí sinh dự thi các trường đại học và cao đẳng. Trong khi đó chỉ tiêu tuyển sinh chỉ ở khoảng hơn 500.000 sinh viên, chiếm hơn 31% số nguyện vọng muốn được vào đại học.
Cầu lớn hơn cung là điều dễ hiểu, bởi vì với dân số hơn 80 triệu dân, hiện Việt Nam mới chỉ có khoảng hơn 400 trường đại học và cao đẳng. Trong khi con số này ở các nước phát triển như Hoa Kỳ là 310 triệu dân có hơn 4.400 trường.
Giáo sư Võ Thế Lực, Tổng thư ký hiệp hội các trường đại học và cao đẳng ngoài công lập cho rằng Việt Nam quá thiếu trường, và trường cũng quá nhỏ để có thể đáp ứng nhu cầu học tập của người dân. Ông nói:
Võ Thế Lực: Ta có hơn 80 triệu dân và mới có được 1 triệu rưỡi học sinh. Một đất nước có tỷ lệ sinh viên như vậy thì không phát triển tốt được. Thứ hai nữa là trường Việt Nam hiện nay quá nhỏ. Trường thì có hơn 400 trường, được mấy trường quốc gia thì cũng nhỏ so với nước ngoài.

Nếu so sánh với các nước trong khu vực, tỷ lệ sinh viên trên số trường đại học của Việt Nam cũng rất thấp, tỷ lệ này chỉ bằng 1 phần 2 so với Thái Lan và khoảng 1 phần 3 so với Hàn Quốc. Theo các nhà lãnh đạo của Việt Nam và các tổ chức phát triển thì Việt Nam đang phải đối mặt với một lựa chọn hoặc phải cải thiện hệ thống giáo dục hoặc những cải thiện ngừng ở đây.
Ngay chính báo cáo của chính phủ về giáo dục đại học hồi năm 2009 cũng chỉ ra rằng hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam đã không bắt kịp được với sự phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.
Từ chủ trương đến hiện thực
Trên thực tế, để cải thiện hệ thống giáo dục nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển, Việt Nam đã tiến hành chương trình cải cách giáo dục đại học vài năm qua, và đã đề ra mục tiêu tăng số trường và tỷ lệ sinh viên vào đại học từ nay đến năm 2020. Theo đó Việt Nam chủ trương xã hội hóa giáo dục, cho phép mở các trường cao đẳng, đại học tư, phấn đấu mỗi tỉnh đều có ít nhất một trường đại học, và đến năm 2020 Việt Nam sẽ có 450 sinh viên trên một vạn dân tương đương với Hungari vào năm 2005. Ông Võ Thế Lực cho rằng chủ trương thì đúng nhưng việc thực hiện thì lại là một vấn đề khác.
Võ Thế Lực: Việt Nam có chủ trương là các tỉnh đều có trường đại học, chủ trương đó không sai. Hiện ta có 63 tỉnh thành thì đã có 62 tỉnh thành có trường đại học. Nhưng những trường này là trường cao đẳng đưa lên, chất lượng trường còn nhiều chuyện phải bàn.
Hiện ta có 63 tỉnh thành thì đã có 62 tỉnh thành có trường đại học. Nhưng những trường này là trường cao đẳng đưa lên, chất lượng trường còn nhiều chuyện phải bàn.
GS Võ Thế Lực
Vấn đề chất lượng giảng dạy đại học đã được minh chứng bằng câu chuyện được báo chí khắp nơi nói đến hồi năm ngoái khi hãng Intel danh tiếng của Mỹ tuyển những cử nhân vào làm việc cho mình tại Việt Nam. Trong số 2.000 thí sinh, những người đã tốt nghiệp các trường đại học của Việt Nam, chỉ có 40 người đáp ứng được tiêu chuẩn tuyển dụng của công ty.
Để tăng số trường cao đẳng và đại học, Việt Nam có chủ trương giảm dần số trường công trong tương lai và phấn đấu đạt con số 40% số sinh viên thuộc về trường tư vào năm 2020. Tuy nhiên, một số các chuyên gia giáo dục cho rằng việc đạt được mục tiêu này là rất khó khăn vì Việt Nam vẫn còn thiếu khung pháp lý cần thiết để hỗ trợ cho sự phát triển của các trường đại học ngoài công lập. Bên cạnh đó là những thiếu thốn về quỹ đất để xây trường mà rất nhiều trường đại học tư đang phải đối mặt.
Ngoài việc thiếu trường, Việt Nam cũng phải đối mặt với việc thiếu đội ngũ giáo viên giảng dạy đại học. Theo thống kê của Bộ giáo dục, hiện cả nước với khoảng 1 triệu 500 ngàn sinh viên mới chỉ có xấp xỉ 52.000 giảng viên. Tỷ lệ giảng viên trên số sinh viên là 1/28, trong khi đó con số này ở các nước trong khu vực là 1/15 hoặc 1/20.

Hồi cuối năm 2006, ông Nguyễn Thiện Nhân, nguyên bộ trưởng bộ giáo dục đã báo cáo với quốc hội về kế hoạch triển khai chương trình đào tạo 20.000 tiến sĩ làm giảng viên nòng cốt cho 400 trường đại học và cao đẳng trên cả nước đến năm 2015.
Ngân hàng thế giới mới đây cũng đã chấp thuận một khoản tín dụng trị giá 50 triệu đô la cho chương trình chính phát triển giáo dục đại học của Việt Nam với hy vọng Việt Nam sẽ đạt được mục tiêu tăng 40% số lượng thanh niên học đại học vào năm 2020. Ông Jeffrey Waite, chuyên gia về giáo dục và phát triển nhân lực tại văn phòng ngân hàng thế giới ở Việt Nam cho rằng Việt Nam đã tiến bộ vượt bậc trong quá trình phát triển nhiều ngành khác nhau, trong đó có giáo dục. Do vậy, mặc dù đây là một kế hoạch đầy tham vọng nhưng ngân hàng thế giới vẫn tin tưởng Việt Nam sẽ đạt được mục tiêu này.
Đó là câu chuyện của những nhà làm chính sách trên cao, còn đối với rất nhiều sinh viên như Thoa, câu chuyện vào đại học là phải vượt qua được kỳ thi tuyển sinh đại học khắc nghiệt được tổ chức hàng năm vào các tháng 6 và 7. Gia đình Thoa cũng giống như nhiều gia đình nông thôn Việt Nam khác mà thu nhập chủ yếu dựa vào việc đồng áng của cha mẹ, việc cho con vào được đại học là mơ ước cả một đời. Với giọng buồn buồn, Thoa nói, “
em cũng không biết làm gì bây giờ, chắc chờ hạ điểm, còn nếu không được thì tính sau”.
Theo dòng thời sự:
- Nhân lực cho trường đại học đẳng cấp quốc tế
- Giáo sư và phó giáo sư thông thạo ngoại ngữ - điều kiện thực chất hay chỉ là hình thức
- Nỗi lo chất lượng giáo dục Đại học
- Việt Nam chấn chỉnh giáo dục đại học
- Quy mô phải đi đôi với chất lượng
- Tại sao nước ngoài chưa muốn đầu tư vào hệ thống giáo dục
- Giáo dục, chuyện nói hoài không hết
- Nên cải cách giáo dục như thế nào?
- Đại học tư thục Phan Châu Trinh phải tạm dừng tuyển sinh
