Cây đổ giòn vang như tiếng pháo
2023.09.12
Ai từng ở Bình Thuận trước và ngay sau thời điểm 1975 xin làm chứng cho tôi.
Rừng Bình Thuận trước kia vô cùng rậm rạp. Trong thập niên 80 của thế kỷ trước (những năm 1980), rừng Tánh Linh còn là đại ngàn hoang dã. Sâu thẳm, bạt ngàn, hoang vu và kỳ bí nên nó chứa rất nhiều truyền thuyết và huyền thoại, trong đó nổi tiếng nhất là truyền thuyết về kho vàng Yamashita, nơi người Nhật chôn vàng bạc châu báu và các đồ quý giá khai thác được từ các nước bị chiếm đóng. Báo chí Việt Nam từng say mê đăng dài kỳ về các chuyến đi vào rừng Tánh Linh để tìm kho báu này của cố vấn chính phủ Việt Nam Cộng hòa-ông Ngô Đình Nhu.
Khoảng năm 2000, người dân phá rừng làm rẫy ngày càng lấn sâu vào rừng, chiếm mất sinh cảnh của voi khiến đàn voi rừng Tánh Linh tràn xuống phá lại mùa màng. Chính quyền phải quyết định di dời đàn voi quý giá này lên rừng Yok Đôn (Đắc Lắc) để cứu chúng.
Vài chi tiết đủ nói lên sự giàu có và mênh mông của rừng Tánh Linh chỉ mới cách đây vài chục năm.
“Ngày xưa đất cọp”
Thời tiết Bình Thuận nói chung nhờ giàu rừng và biển mà rất điều hòa. Đành rằng có mùa khô và mùa mưa như tất cả các địa phương nằm ở miền Trung và Nam, nhưng mùa mưa không kinh hoàng lũ quét hay bão tố. Mùa nắng thì ngoài trời nắng vàng rát, nhưng gần như lúc nào cũng có gió lồng lộng, chỉ cần vào bóng râm đã mát rượi. Ban đêm còn mát lạnh đến nỗi ngủ phải đắp tấm chăn mỏng.
Rừng Bình Thuận miên man lạc lối. Từ sông Cà Ty trung tâm thành phố Phan Thiết, nhìn qua trái là dãy dãy núi xa mờ xanh biếc. Nhìn qua phải, chỉ một đoạn ngắn sông uốn khúc nữa là đến cửa biển.
“Cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận”, câu đúc kết nổi tiếng của dân gian ấy cho ta mường tượng một phần về sự bát ngát miên man của núi rừng Bình Thuận.
“Kỳ thực Bình Thuận chính là đất cọp.
Bình Thuận nằm ở cuối Trung, đầu Nam bộ. Rừng và đất rừng chiếm phần lớn. Có các kiểu rừng thường xanh, rừng rụng lá xen trảng tranh… Cọp là loài thú chuộng sinh cảnh như thế.
Phan Sơn là xã miền núi huyện Bắc Bình, tiếp giáp Nam Tây nguyên. Sách Phan Sơn truyền thống kháng chiến 1945 - 1975 do cấp ủy xã Phan Sơn xuất bản năm 1999, tại trang 9, viết: “Trong rừng có nhiều loại chim thú quý: Cọp, báo, gấu, voi, hươu nai, khỉ…”.
Anh K’ Bé, cựu Bí thư Đảng ủy xã Phan Sơn, cho hay: “Đồng bào Rắc Lây và K’ho xã Phan Sơn trước đây sống trong các buôn. Nhà nào cũng có hàng rào tre lồ ô vát nhọn, vậy mà cọp mò vô được bắt heo. Có hai người bị cọp vồ, may mắn thoát được, đó là ông Mang Pha. Năm 1977, một lần Mang Pha gặp cọp to bên bờ suối. Nó thấy ông từ trước nên nhảy tới vồ.
Người thứ hai là K’ Taan. Một đêm đầu mùa mưa năm 1982. K’ Taan, khi ấy là chủ tịch xã, muốn kiếm ít thịt tươi đãi khách nên cầm súng AK ra khỏi nhà. Sau gần một giờ đội đèn đi dọc con suối lớn, K’ Taan nghe mùi khét khét rồi đôi mắt đỏ quạch bắt ánh đèn pin trên đầu ông. Thói thường, người đi săn đều hướng mũi súng về phía trước, tay cầm chắc bá súng đề phòng bất trắc. Khi hai con mắt đỏ lừ mỗi lúc một gần, K’ Taan càng hướng mũi súng xuống ngang thắt lưng, đề phòng. Đúng vào lúc đó, một con vật lông màu vàng vằn vện phóng thẳng về phía K’ Taan. Ngả người bóp cò, khẩu súng trong tay K’ Taan giật nhẹ. Một tiếng “bịch” nặng nề, khô khan vang lên. Con cọp dài hai thước bị đạn ngay đầu nằm chết, một chân của nó cách chân K’ Taan nửa thước.
“Chiến khu cọp” và rừng ven sông Dinh
Cố Thiếu tướng Phạm Hoài Chương, trong trang hồi ký về Thái An thuộc chiến khu Lê (Bắc Bình) gọi Thái An là “chiến khu cọp”. Thời chống Pháp, cọp xông vào bệnh xá, vồ Trưởng đoàn văn công Tiểu đoàn 89, mang đi. Cọp cũng là kẻ thù của lính Pháp. Mỗi trận đánh ở Thái An, Pháp chưa kịp lấy xác cọp liền tha đi.
Ở Hàm Tân, bên phải cầu Láng Gòn (xã Tân Xuân) (năm 1953), bốn bề là rừng. Dân La Gi tản cư lên vùng này, lập nên xóm Đoàn Kết. Nhà dân đều có rào cao. Một tối nọ, cô Hường (15 tuổi), con gái anh Hai Chọn, mở cổng rào ra liền bị cọp vồ. Cả xóm mang đuốc đuổi theo. Tới bìa rừng, họ phát hiện con hổ lớn, chân đạp xác Hường, nhìn về phía đoàn người, gầm gừ. Hàng chục ngọn đuốc phóng về phía cọp, buộc nó bỏ xác phóng đi.
Cựu Bí thư Huyện ủy Hàm Tân (2005 - 2010) Nguyễn Công Sanh cho hay: “Bên kia sông Dinh, năm 1965 - 1970, cọp về thường xuyên. Khoảng 8 - 9 giờ sáng còn nghe tiếng cọp gầm. Có năm cọp còn về cách cầu Láng Gòn hiện nay vài chục mét”.
Tây Bình Thuận và Rừng Lá
Anh Lê Thúc Tôn, nhiều năm là giáo viên vùng cao Tánh Linh; cựu Chủ tịch xã La Ngâu năm 1984, cho biết: “Sau năm 1975, La Ngâu còn cọp. Đồng bào K’ho ở buôn Tà Bạch, Tà Mỹ thuộc xã, có thói quen vứt xác heo chết dịch ra suối, cọp ăn thành quen, sau này cọp mò vô trong buôn bắt heo, dê”.
Tánh Linh còn có sự kiện ông Cao Tiến Hộ bắn cọp tại dốc dài thuộc xã Đức Bình 1984. Dốc dài khi đó là đường đất mới. Hai bên là đồi cao. Cọp phục ở chân dốc, vồ một em bé, để lại cái đầu. Dân chúng càng hoang mang vì sau đó cọp mò qua xã Đức Thuận gần đó bắt trâu, bò. UBND huyện Tánh Linh treo thưởng 1.500.000 đồng cho người diệt cọp. Cao Tiến Hộ khi ấy là Trưởng phòng Văn hóa -Thông tin quyết tâm săn cọp.
Ông điều nghiên nơi cọp có thể mò ra. Và rồi, ông bắn hạ được con cọp cái dài đến 2,4 m, nặng 240 kg. Xã Suối Kiết thuộc Tánh Linh, cũng là nơi nhiều cọp... Trước năm 1975, Suối Kiết là vùng rừng nguyên sinh, trong đó có khu Rừng Lá. Người dân sống bằng nghề khai thác cây gỗ, lá buông, các loại lâm sản phụ khác trong rừng lá. Tại trang 80 cuốn Lịch sử truyền thống xã Suối Kiết 1945 - 2010(4), cho hay: “Giai đoạn 1975 - 1980, người dân ra khỏi nhà là gặp thú rừng, còn cọp thỉnh thoảng quanh quẩn sau nhà dân...”.
Các đoạn trích trên nằm trong bài “Bình Thuận, ngày xưa đất cọp” của tác giả Hà Thanh Tú, đăng trên báo Bình Thuận điện tử ngày 16/1/2022. Tác giả Hà Thanh Tú dẫn nguồn các tư liệu về cọp nói trên trong các cuốn sách: Chi bộ xã Phan Sơn, huyện Bắc Bình, xuất bản năm 1999; Phạm Hoài Chương và Trương Công Lý, trang 53, 187, sách Văn học Kháng chiến Bình Thuận, do Hội Văn nghệ Bình Thuận xuất bản. Nhà xuất bản Văn Hóa - Văn Nghệ in tháng 5/2020 và Lịch sử truyền thống xã Suối Kiết 1945 – 2010, do Đảng bộ xã Suối Kiết xuất bản, năm 2010, bản PDF.
Những đám lửa trên núi
Hàm Tân và vùng cao Tánh Linh giáp giới với vùng rừng Ka Pet, nơi có dự án hồ thủy lợi Ka Pet đang gây sóng dư luận mấy ngày nay.
Nhưng, ngay sau 1975, những ai thời ấy hay đi lại trên quốc lộ 1, đoạn từ Ninh Thuận, Bình Thuận vào Sài Gòn sẽ rất quen với cảnh những đám lửa đỏ bập bùng trên các triền núi kéo dài suốt hai bên đường. Thời ấy dân cư thưa thớt hơn bây giờ, giữa những thị tứ nhỏ là mấy chục km đường hoang vắng, hai bên chỉ có đồi núi, rừng và rừng cao su. Điện sinh hoạt còn không có nên tất nhiên chẳng có đèn đường. Giữa đêm đen thăm thẳm của hàng trăm km quốc lộ, những đám lửa trên núi xa đặc biệt trông rõ.
Ai đốt lửa thâu đêm trên núi?
Là dân. Dân đi chặt củi, hầm than suốt đêm trên núi, mang xuống phố bán, kiếm tiền mua gạo, nước mắm, cá khô.
Thời bao cấp, cái gì cũng thiếu thốn. Nhiên liệu dùng trong gia đình phổ biến là trấu và mùn cưa. Nhà kha khá mới có tiền mua củi. Nhà nào dùng than là đã sướng lắm rồi, vì than cháy lâu, lửa lớn và không khói, sạch nồi chảo. Than mắc lắm. Tôi nhớ cứ gần Tết, má tôi mới đi mua một bao than lớn về xài. Những tảng than to lớn còn nguyên hình cành cây to tròn, thẳng hoặc cong queo, phải dùng dao chặt nhỏ ra mới cho vừa vô bếp.
Thời bao cấp, đến ăn còn không no, nói gì đến giữ rừng với bảo vệ môi trường. Dân ngoài quốc doanh đói, dân trong quốc doanh càng đói. Thôi thì nông trường, lâm trường mọc lên như nấm, và dân ven rừng thì mặc sức. Cứ vào rừng, ai chặt, kiếm được cái gì bán ra tiền cứ chặt, cứ kiếm.
Bây giờ gỗ đắt lắm, nhưng thời ấy thì trong nhà ai cũng đầy gỗ, chẳng có gì ngoài gỗ: bàn, tủ, ghế, giường, bộ ván, tủ thức ăn, kệ sách… tất tần tật gì cũng gỗ. Vì ngoài gỗ ra thì có vật liệu nào khác nữa đâu?
Lâm trường nông trường mọc lên chính là sự chính thức hóa và quy mô hóa sự tham gia của Nhà nước vào công cuộc phá rừng.
Phá rừng khai thác gỗ, bán.
Phá rừng để có đất trồng khoai, trồng bắp chống đói cho cả nước.
“Công trường của ta là dốc núi
Chim rừng ríu rít bên khe suối
Xen lẫn tiếng rìu tiếng cưa nhịp nhàng khắp trên non ngàn
Cây đổ giòn vang như tiếng pháo
Tiếng hò nhịp theo trâu kéo gỗ
Áo thấm bao mồ hôi nhưng lòng rộn bao niềm vui."
Đó là điệp khúc trong bài ca Khúc ca người thợ rừng, được gọi là “Ngành ca” của ngành lâm nghiệp, tác giả là nhạc sĩ Phạm Tuyên, sáng tác năm 1963.
Tư duy khai thác cạn kiệt tài nguyên để mua thức ăn của một thời xa vắng kéo dài đến hàng chục năm sau ngày thống nhất đất nước.
Nhưng phá rừng kinh khủng nhất là thời kỳ Kinh tế mới.
Ở thành thị, chính quyền sàng lọc người dân theo các quy định chính trị. Theo đó những gia đình/cá nhân bị xếp vào loại lý lịch xấu (tôi không nhớ rõ, hình như có 14 loại. Xếp từ loại 10 trở về sau là lý lịch xấu) bị bắt buộc rời thành thị để “đi Kinh tế mới”. Về bản chất, đi kinh tế mới tức là nhổ bật toàn bộ gia đình họ khỏi quê quán, nhà cửa, điều kiện sinh sống, học tập, làm việc với tất cả các mối quan hệ ở thành thị, đưa họ đến những vùng đất hoặc rừng hoang. Họ sẽ được cấp một mảnh đất, phát hai chiếc cuốc xẻng, một ít tiền để sinh hoạt và mua giống, phân bón… trong thời gian đầu, khoảng từ 6 tháng đến một năm.
Những bàn tay quen cầm bút hay cầm bàn tính sẽ phải cầm cuốc cầm rựa để phát cây, đốt rẫy, trỉa bắp, trồng khoai, trồng rau, nuôi heo nuôi gà… tự sản xuất tất cả lương thực và thực phẩm cần thiết để nuôi sống gia đình.
Trong lớp của chúng tôi, thỉnh thoảng lại vắng đi một bạn. Chỉ có một trong hai khả năng: một là đi kinh tế mới, hai là đi vượt biên.
Cụ L.N.H, từng giữ chức vụ khá cao trong bộ máy kinh tế nhà nước tỉnh Thuận Hải nói về thời kinh tế mới:
- Phá rừng nhiều nhất là thời kinh tế mới. Có những cái nhà dựng lên, giữa nhà vẫn còn nguyên cái gốc cây (vì lớn quá, không thể bứng hết cụm rễ đi được, chỉ có thể chặt hoặc đốt bớt-TG).
Song hành với chính sách Kinh tế mới là chính sách Ngăn sông cấm chợ. Người dân không thể đưa bất cứ thứ gì ra khỏi ranh giới địa phương.
-Người ta mang theo một hai ký gạo cũng bị bắt, quy tội buôn lậu lương thực-Cụ H. kể tiếp.
Hai chính sách này như hai cánh tay bóp thít cổ người dân, bắt họ sống tự cấp tự túc trong một khu vực vô cùng hạn hẹp. Không giao thương, không trao đổi hàng hóa. Người dân ở gần rừng chỉ còn một cách là phá rừng mà sống. Như tôi đã kể ở phần đầu, hầm than là cách phổ biến nhất vì nó rất dễ.
Ở giai đoạn sau, khi các chính sách sửa sai đã trả lại khả năng sản xuất lương thực vĩ đại của Nam Bộ để không chỉ nuôi no bụng toàn bộ dân Việt Nam mà còn thừa rất-rất nhiều để xuất khẩu, thì “tiếng rìu tiếng cưa nhịp nhàng khắp trên non ngàn” để bán mua gạo đã biến tướng thành chặt trọc rừng để thành trọc phú.
Những người dân nghèo sống ven rừng, vào rừng hạ cây để hầm than hay đi chặt gỗ lẻ bây giờ thành “thợ rừng”, làm thuê cho đủ loại ông chủ giàu lóa mắt, vào rừng bằng xe cơ giới, chặt cây bằng cưa máy, chuyển gỗ công khai giữa ban ngày trên lộ lớn bằng xe tải. Và trong không ít trường hợp, chúng có người bảo kê từ chính cơ quan bảo vệ rừng và/hoặc các cơ quan pháp luật.
Tỉnh Thuận Hải, tiền thân của hai tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận bây giờ, tận từ thời ông Tám Hiền (Lê Văn Hiền, nguyên Bí thư tỉnh ủy) và Tư Ngọc (Trần Ngọc Trác, Chủ tịch UBND tỉnh) vào khoảng những năm 80 của thế kỷ trước đã nổi tiếng với câu phát biểu “Thuận Hải bây giờ về cơ bản đã… phá xong rừng”. Câu này được gán cho một trong hai vị trên, nhưng không biết chính xác đến đâu và nếu có thì trong trường hợp nào.
Vụ án “Đồi hoa mai” nổi tiếng ở Bình Thuận được xét xử vào năm 2005, đầu sỏ là Hai Chi, trùm phá rừng buôn lậu gỗ suốt hàng chục năm. Oái oăm thay, băng đảng Hai Chi bị trừng trị không phải vì thành tích phá rừng lừng lẫy và bền vững, mà do chúng ngang nhiên bạo hành, phá nhà cửa và chém giết những người dân trong vùng dám tỏ thái độ bất bình và tố cáo. Sự đắc chí và lộng hành này bắt nguồn từ mối quan hệ chặt chẽ của Hai Chi với Công an huyện Hàm Tân (Phó Trưởng Công an), Công an tỉnh Bình Thuận (11 cán bộ, chiến sĩ) và một số cán bộ lãnh đạo, cán bộ Viện kiểm sát tỉnh Bình Thuận thời điểm đó.
Nếu sự ngang ngược này không đến đỉnh điểm là giết chết một người dân thì có lẽ băng đảng Hai Chi vẫn còn sống thoải mái ở ngoài để tiếp tục sự nghiệp phá rừng.
Hai Chi chỉ là một trong những nhóm phá rừng có sừng có mỏ ở địa phương. Có nhiều nhóm phá rừng khác hoặc yếu hơn, hoặc khôn khéo, cáo già hơn, không ra mặt.
Nhưng phá rừng quy mô nhất chính là những kẻ được giao trách nhiệm bảo vệ rừng.
Năm 2013, ngay tại khu vực rừng thuộc xã Hàm Cần (huyện Hàm Thuận Nam, Bình Thuận) - khu vực đang có dự án phá rừng xây hồ thủy lợi Ka Pet, Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc Công ty Lâm nghiệp Bình Thuận và một số cán bộ thuộc Hạt Kiểm lâm Hàm Thuận Nam đã tiếp tay phá gần 30 ha rừng. Nhưng vụ án hủy hoại rừng kéo dài mãi đến năm 2021 mới có quyết định khởi tố bị can.
Và chỉ cuối năm 2022 đây thôi, 20.000 m2 rừng ngay trong Khu bảo tồn thiên nhiên Tà Cú đã bị phá. Số cây bị đốn hạ có đường kính gốc từ 10 cm-40 cm vẫn chưa được đếm hết, nhưng ước tính lên tới hàng ngàn cây. Đáng nói là số lượng gỗ bị chặt và diện tích rừng bị phá có chênh lệch rất lớn với báo cáo của Ban quản lý Khu bảo tồn.
Kể thì không hết.
Hậu quả của tất cả chuỗi chính sách và việc làm suốt những năm sau 1975 đã dẫn đến hậu quả rừng ở Bình Thuận và Ninh Thuận gần như bị gọt trọc toàn bộ.
Đó cũng là tình trạng chung của cả nước.
(Còn tiếp)
___________________
Tham khảo:
https://baobinhthuan.com.vn/binh-thuan-ngay-xua-dat-cop-94552.html
https://nld.com.vn/phap-luat/ai-giup-hai-chi-thoat-khoi-danh-sach-den-lam-tac-122684.htm
https://thanhnien.vn/xu-vu-lam-tac-sat-hai-nhan-vien-lam-truong-cach-day-18-nam-185252705.htm
https://thanhnien.vn/san-ui-rung-gay-thiet-hai-cho-nha-nuoc-gan-6-2-ti-dong-1851393852.htm
https://plo.vn/chuyen-cong-an-dieu-tra-vu-pha-rung-tai-khu-bao-ton-thien-nhien-ta-cu-post718898.html
https://thanhtravietnam.vn/thoi-su/binh-thuan-dieu-tra-kiem-lam-ban-rung-139578.html
https://phanri.plus/ho-bien-lac.html
https://nld.com.vn/phap-luat/sau-vu-an-hai-chi-tro-lai-doi-hoa-mai-141035.htm
https://tienphong.vn/hai-chi-12-nam-pha-rung-chi-dinh-10-vu-co-post17372.tpo
https://www.hinhanhlichsu.org/2020/05/di-vung-kinh-te-moi-o-viet-nam-sau-nam-1975.html
* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do