Quy luật giàu nghèo
2013.01.09
Có lẽ những yếu tố ấy mới là cơ sở cho một chính sách kinh tế thích hợp. Xin quý vị theo dõi cách Vũ Hoàng nêu vấn đề với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa về loạt chương trình này.
Tạo thịnh vượng cho quốc gia
Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, mở đầu cho năm mới, xin đề nghị ông trở lại một vấn đề căn bản của các quốc gia là tạo ra của cải hay sự thịnh vượng. Nhiều thính giả theo dõi tiết mục chuyên đề này của chúng ta có thể thắc mắc với câu hỏi đó khi hàng ngày phải phấn đấu để tạo ra của cải cho gia đình sớm thoát khỏi cảnh nghèo khổ và cũng rất thích cách ông đặt vấn đề kinh tế dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Ông nghĩ sao về đề nghị này?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi cho rằng đây là đề tài hữu ích nhưng đòi hỏi nhiều chương trình liên tục để giải thích cho tường tận, có khi đến Tết chưa xong! Tôi xin được tạm gọi chung đề tài là "những quy luật của giàu nghèo", trong tinh thần phân tích xem là nhờ đâu mà một quốc gia trở thành thịnh vượng và vì sao lại có nhiều nước chưa thoát khỏi sự nghèo khốn. Nhưng trước hết, mình nên khởi sự bằng cách phơi bày nhiều sự ngộ nhận khá phổ biến.
Vũ Hoàng: Nghĩa là ông muốn bác bỏ một số lý luận mà ông cho là ngộ nhận hoặc hiểu sai?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa đúng thế vì nếu không thấy ra cái sai, ta sẽ khó tìm ra cái đúng và sự lầm lẫn ấy còn có thể dẫn đến những chính sách kinh tế bất lợi cho yêu cầu thịnh vượng.
Đầu tiên, trước khi thế giới tìm ra và tổng hợp các kiến thức để có khoa kinh tế chính trị học, tức là chỉ từ vài trăm năm trở lại, loài người đã có bài toán kinh tế. Đó là con người ta đều muốn có phương tiện sinh hoạt lớn lao hơn khả năng sản xuất của mình. Giải quyết sự khan hiếm ấy là bài toán kinh tế ngàn đời. Khi tìm cách giải quyết, người ta phải tìm hiểu lý do của sự khan hiếm hoặc nguyên nhân của nghèo khó. Nhưng ta khó tìm ra giải pháp nếu cứ đơn giản cho rằng sự nghèo khó của xứ này là do xứ khác gây ra. Xin gọi đó là lý luận hàm hồ của sự bóc lột.
Đến nay, nhiều người còn nói rằng một quốc gia có thể làm giàu bằng cách khai thác xứ khác. Nguyên ủy là từ lập luận hồ đồ của Marx về lợi nhuận và giá trị thặng dư, Lenin khai triển ra quy mô quốc tế lý luận về chủ nghĩa đế quốc theo đó các nước tư bản làm giàu bằng cách bóc lột các nước nghèo. Lý luận này đề ra một tương quan nhân quả nhiều khi sai lạc về sự giàu nghèo. Nôm na là sự nghèo khốn của xứ này là do xứ khác gây ra và ngược lại, sự giàu có của nước này là kết quả của chính sách bần cùng hóa xứ khác.
Tôi xin đi vào chuyện cụ thể của trăm năm trước, khi Lenin viết ra cuốn sách về Chủ nghĩa Đế quốc, y hệt như chuyện của hiện tại, là quả thật rằng các nước tư bản Tây phương có đầu tư ra ngoài, nhưng chủ yếu là đầu tư vào các nước tư bản khác. Còn kim ngạch đầu tư vào các nước nghèo, hay đang phát triển như ta nói bây giờ, chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Vậy mà ngày nay các nước nghèo vẫn đang tìm cách chiêu dụ và thu hút đầu tư của các nước tư bản. Khi còn lấn cấn trong đầu cái lý luận hàm hồ của sự bóc lột thì mình khó nhìn ra bài toán khan hiếm và giải pháp về phát triển.
Vũ Hoàng: Nhưng ta không thể phủ nhận được sự hiện hữu của chủ nghĩa thực dân và sự bành trướng của chủ nghĩa đế quốc từ Âu Châu qua các lục địa khác. Ông trả lời sao về câu hỏi này?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Quả thật là các nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha hay Anh, Pháp đã trước sau chinh phục nhiều khu vực và có gây ra thảm họa cho nhiều dân tộc khác trên thế giới. Nhưng câu hỏi đầu tiên là vì sao họ chinh phục được các vùng đất rộng lớn hơn lãnh thổ của họ và khuynh đảo được một dân số đông gấp bội? Tức là từ trước đó, các nước thực dân đế quốc đã có sức mạnh kinh tế, quân sự hay kỹ thuật gì đó mà các nước kia không có. Vì sao lại như vậy? Và vì sao nhiều nước tự cô lập và không hề bị chiếm làm thuộc địa mà vẫn cứ nghèo khốn hoặc còn tự làm cho họ nghèo đi? Ta sẽ còn cơ hội nhắc đến những trường hợp cụ thể này.
Yếu tố địa lý
Vũ Hoàng: Ông hay nói đến địa dư hình thể, kể cả đất đai hay tài nguyên thiên nhiên. Liệu đó có là những yếu tố giải thích sự thịnh vượng của nhiều quốc gia không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng địa dư hình thể có chi phối cách giải quyết bài toán khan hiếm và đem lại lợi thế cho sự thịnh vượng nhờ diện tích khả canh nhiều hay ít, có mạng lưới sông ngòi hay khí hậu thuận tiện hay không, v.v.... Nói chung, các nền văn minh lớn của nhân loại đều xuất phát từ vùng châu thổ của các con sông lớn và khu vực núi non hiểm trở thì khó phát triển và thường đi sau vùng đồng bằng.
Nhưng địa dư không là thực thể bất biến hay trở lực vĩnh viễn. Thác nước kia có thể là một chướng ngại cho đến khi con người nghĩ ra máy xoay nước và dùng sức nước làm ra điện. Nhiều tài nguyên thiên nhiên như quặng mỏ dầu khí có thể là thứ vô dụng trong cả vạn năm, cho đến khi con người khám phá ra công dụng mới.
Nói chung, các nền văn minh lớn của nhân loại đều xuất phát từ vùng châu thổ của các con sông lớn và khu vực núi non hiểm trở thì khó phát triển và thường đi sau vùng đồng bằng.
Nguyễn-Xuân Nghĩa
Khi ấy ta mới chú ý đến trí tuệ của con người trong bài toán khan hiếm. Vương quốc Á Rập Saudi là nước sản xuất nhiều dầu thô nhất thế giới, lại được trời cho những giếng dầu dễ khai thác, nghĩa là ít tốn kém so với dầu thô của nhiều xứ khác. Nhờ vậy, xứ này có nhiều hoàng thân tỷ phú, nhưng lợi tức bình quân một đầu người chỉ bằng 42% lợi tức của Singapore là một xứ không có dầu và còn phải mua nước của Malaysia. Israel là một quốc gia không được thiên nhiên ưu đãi, chẳng có một giọt dầu nào và thường xuyên bị đe dọa, nhưng người dân vẫn giầu hơn hầu hết các nước Á Rập có dầu ở chung quanh. Nghĩa là ăn thua vẫn ở cách tổ chức của con người. Trong một kỳ khác, chúng ta sẽ nói riêng về địa dư hình thể và không quên trường hợp Nhật Bản, Nam Hàn hay Đài Loan trong khu vực Á châu Thái bình dương.
Vũ Hoàng: Nhắc đến Nhật Bản, ông có thấy rằng xưa kia xứ này là một nước nghèo hay không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Mới chỉ nửa thế kỷ trước thôi, người ta còn xem thường sản phẩm chế tạo tại Nhật là đồ dỏm, rẻ tiền và dễ hư nếu so sánh với các sản phẩm Âu-Mỹ. Ngày nay, xe hơi, máy ảnh và nhiều đồ gia dụng khác của Nhật là tiêu chuẩn cao nhất và dân Nhật cũng thuộc loại giàu nhất. Nhìn trong lịch sử lâu dài thì cho đến thế kỷ 19, Nhật Bản còn là một quốc gia nghèo và khá lạc hậu vì khép cửa với bên ngoài trên một lãnh thổ có ít tài nguyên. Nhưng chỉ một thế kỷ thôi, họ đã thay đổi và thoát ra khỏi cái nghiệp nghèo khốn này.
Nhân chuyện đó, chúng ta cũng thấy ra một sự thật khác. Người ta cứ tưởng các nước nghèo là một khối bất động, chết kẹt trong sự nghèo khổ từ cả trăm năm hoặc còn lâu hơn nữa. Ngày nay, nhiều người còn gọi chung các xứ đó là "Thế giới Thứ ba" hay Đệ tam Thế giới ở giữa khối tư bản và khối cộng sản. Đây là một sự lầm lẫn, vì không thấy ra sự chuyển dịch chậm rãi lâu dài của các quốc gia.
Chẳng hạn như cách đây trăm năm, Argentina ở Nam Mỹ đã là cường quốc giàu mạnh hơn hai đại cường Âu Châu là Đức và Pháp. Thế rồi, với sức người, áo cơm cũng có thể biến thành sỏi đá và ngày nay Argentina trở thành một nước "đang phát triển" còn thua xa nhiều nước Đông Âu mới thoát khỏi chủ nghĩa cộng sản có hai chục năm. Cũng thế, Singapore hay Nam Hàn đều đã từng là nước nghèo, thuộc loại gọi là Đệ tam Thế giới, ngày nay họ là nước "tân hưng" trong khi Miến Điện lại tụt hậu mất nửa thế kỷ sau khi là một nước giầu của Đông Nam Á.
Làm sao tránh tụt hậu
Vũ Hoàng: Như ông vừa trình bày thì mình có thề thấy rằng quốc gia nào trên thế giới cũng từng có lúc là nước nghèo, thuộc loại gọi là Thế giới Thứ ba. Nhưng sau đấy họ đã giải quyết được bài toán khan hiếm để hành quốc gia thịnh vượng. Và vì vậy, chúng ta mới tìm hiểu xem họ giải quyết như thế nào và vì sao có nhiều nước thì nghèo vẫn cứ hoàn nghèo và nhiều nước còn tự làm cho mình nghèo đi....
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa đúng thế và ta cũng thấy rằng giải thích sự nghèo khổ chưa hẳn là có ích bằng việc tìm ra giải pháp cho thịnh vượng. Và mình nên tìm hiểu chuyện ấy trong một bối cảnh dài có thể cả trăm năm. Hiểu ra quy luật chung thì sẽ tránh được cái họa tụt hậu.
Nói chung thì xứ nào cũng từng đã có lúc là quốc gia chậm tiến và nghèo khó nhưng lại vươn lên trong khi nhiều quốc gia đã từng dẫn đầu thế giới về sự thịnh vượng, có khi trong cả chục thế kỷ như trường hợp Trung Quốc, rồi sau đó lại lụn bại không vì ách thực dân đế quốc hay bị liệt cường sâu xé. Vì Trung Quốc lụn bại từ trước nên mới bị ngoại bang khuất phục, hậm hực mất trăm năm. Khi nhìn rõ hơn cái tương quan nhân quả về sự giàu nghèo thì mình tránh được việc quy trách cho người khác cái hoạn nạn do chính mình gây ra cho mình.
Vũ Hoàng: Qua từng bước phân tích như vậy, ông làm sáng tỏ được một số điều về lẽ thịnh suy hay giàu nghèo của các quốc gia. Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu thêm từng yếu tố của quy luật giàu nghèo. Kết thúc chương trình kỳ này và quy vào trường hợp Việt Nam sau khi suy ngẫm về kinh nghiệm của các nước khác, ông cho rằng yếu tố nào là quan trọng và đáng suy ngẫm nhất?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trên địa cầu hay trong một quốc gia, ta đều thấy là có sự giàu nghèo. Muốn người nghèo hay nước nghèo thoát ra khỏi tình trạng này thì người ta cần rất nhiều điều kiện, từ dân số đến văn hóa, v.v... Nhưng nếu muốn nói đến điều kiện có thể là then chốt nhất, tôi nghĩ đến nền tảng pháp lý, quyền tư hữu và nếp văn hóa của sự tin cậy.
Và nếu những ai tạo ra của cải lại bị nhà nước trấn lột vì luật lệ thiếu nghiêm minh, là chuyện đang xảy ra tại Việt Nam, thì nghèo vẫn hoàn nghèo....
Nguyễn-Xuân Nghĩa
Một người nghèo mà có sáng kiến kinh doanh, dù ban đầu chỉ thuộc loại cò con, cũng khó thoát khỏi kiếp nghèo nếu không huy động được vốn để khai triển sáng kiến. Nhiều người nghèo tại các nước công nghiệp tiên tiến đã tìm ra vốn và kinh doanh thành công để trở thành triệu phú trong khi cũng tạo ra việc làm và sự thịnh vượng cho xã hội. Thế thì vì sao họ làm nổi việc đó?
Họ làm được vì ban đầu đã có tiền từ người giàu. Người giàu có thể yên tâm đưa tiền cho người nghèo mà có khả năng kinh doanh để cùng nhau phân chia lợi nhuận. Thế rồi khi cần mở mang doanh nghiệp và vay tiền loại người giàu không hề quen biết, như qua ngân hàng hay thị trường chứng khoán, thì doanh gia này phải có hồ sơ kế toán và thông tin xác thực về thành tích đã qua.
Sở dĩ những người đó làm được như vậy vì xã hội đã có luật lệ hẳn hoi - nhất là về quyền tư hữu – và được áp dụng nghiêm minh. Nền tảng ấy mới tạo ra niềm tin, hay sự tín cẩn, tín nhiệm. Thiếu nền móng từ pháp lý đến văn hóa ấy thì người ta chỉ còn tin nhau trong phạm vi rất hẹp của bạn hữu và gia đình nên chỉ làm được việc nhỏ, với lợi ích giới hạn về kinh doanh và kinh tế. Và nếu những ai tạo ra của cải lại bị nhà nước trấn lột vì luật lệ thiếu nghiêm minh, là chuyện đang xảy ra tại Việt Nam, thì nghèo vẫn hoàn nghèo....
Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về thí dụ thấm thía này, và xin hẹn ông kỳ sau mình sẽ nói tiếp về những điều kiện khiến cho một quốc gia có thể trở thành giàu có thịnh vượng.
Theo dòng thời sự:
- Giã từ toàn cầu hoá
- Mất một thập niên?
- Tổng kết tình hình kinh tế 2012
- Thuyết đấu trí
- Nạn ỷ thế làm liều
- Gẫy đòn bẩy
- Liên minh thuế quan
- Sở hữu chồng chéo làm ngân hàng tròng trành
- Nhà nước và phát triển
- Đi tìm sự dung hòa kinh tế
- Khủng hoảng tài chính toàn cầu
- Cải cách ngân hàng VN gặp khó khăn
- Doanh nghiệp sẽ tiếp cận vốn dễ dàng?
- Ngân hàng Nhà Nước giảm lãi suất của một số hạng mục
- Suy Trầm Hay Khắc Khoải?