2035: Việt Nam có thể phải nhập khẩu 50% năng lượng?

0:00 / 0:00

Vì sao phải nhập khẩu năng lượng?

Ông Nguyễn Văn Bình khi phát biểu tại Diễn đàn Cấp cao Năng lượng Việt Nam 2020, vào ngày 22 tháng 7 năm 2020 tại Hà Nội cho rằng, sở dĩ tỷ lệ nhập khẩu năng lượng tăng cao vào năm 2035 đến 50%, là do cạn kiệt nguyên liệu hóa thạch sản xuất điện, khiến nhu cầu nhập khẩu năng lượng vào hệ thống điện trong nước tăng cao, để đảm bảo nguồn cung ứng điện trong nước.

Ngoài ra, theo ông Bình, trữ lượng dầu khí vùng gần bờ của Việt Nam đã dần cạn kiệt, hầu hết các mỏ đã được khai thác trong thời gian dài và đang ở giai đoạn cuối với sản lượng giảm tự nhiên từ 15% đến 30% hàng năm.

Trao đổi với Đài Á Châu Tự Do hôm 22 tháng 7 năm 2020 về vấn đề này, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương, nói:

“Hiện nay nhu cầu năng lượng của Việt Nam đang tăng lên với tốc độ khá cao, tiêu thụ năng lượng của Việt Nam thường cao từ 1,5 cho đến 2 lần tăng trưởng GDP. Tức là hiệu quả sử dụng năng lượng của Việt Nam cần được cải thiện. Thứ hai, Việt Nam có một số nguồn năng lượng, nhưng gần đây, khi thác than và khai thác dầu khí đã bị hạn chế. Vì vậy Việt Nam sẽ phải nhập khẩu năng lượng, và nhập khẩu năng lượng như vậy sẽ tiêu tốn khá nhiều ngoại tệ, đó là một thách thức đối với Việt Nam.”

Tổng sơ đồ 8 đã hiệu chỉnh thì nó không như thế. Trong đó, từ năm 2026 những nhiệt điện than nào chưa xây dựng đều dừng lại hết, có phải nhập khẩu than nữa đâu.<br/>-TS. Ngô Đức Lâm

Một cách khác mà Việt Nam có thể giải quyết theo Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, đó là sử dụng những năng lượng tái tạo là năng lượng gió, năng lượng mặt trời và các loại năng lượng khác như sinh khối hay năng lượng lên men của các chất thải sinh học, thì cũng có thể giúp Việt Nam giải quyết một phần các nhu cầu năng lượng này.

Tuy nhiên, Tiến sĩ Ngô Đức Lâm, chuyên gia năng lượng độc lập thuộc Liên minh Năng lượng bền vững Việt Nam; nguyên Phó viện trưởng Viện Năng lượng, khi trao đổi với Đài Á Châu Tự Do hôm 22 tháng 7 năm 2020 liên quan vấn đề này, tỏ ra nghi ngờ về thông tin mà Trưởng ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Văn Bình đưa ra:

“Tôi không nghe cái này, mà chắc cũng không đúng như thế, riêng tôi đọc cái Tổng sơ đồ 8 đã hiệu chỉnh thì nó không như thế. Trong đó, từ năm 2026 những nhiệt điện than nào chưa xây dựng đều dừng lại hết, có phải nhập khẩu than nữa đâu. Tổng sơ đồ 8 tính tới năm 2045, từ nhập 100 triệu tấn than xuống còn 20 triệu tấn, giảm rất nhiều, thì có cái chuyện nhập 50% năng lượng đâu. Tôi thấy có cái hướng tăng năng lượng tái tạo lên đến 30% 40%... và nhiều hơn nữa... thì hoàn toàn ở trong nước, có nhập gì đâu.”

Tỷ lệ sử dụng các dạng năng lượng trong nước

Theo Quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045, gọi tắt là Quy hoạch điện 8, tổng công suất sẽ đạt mức 130 GW vào năm 2030 và 221 GW vào năm 2045.

Trong đó, về cơ cấu nguồn điện đến năm 2030, thủy điện vừa và lớn 17%, nhiệt điện khí - dầu 17,3% và nguồn điện năng lượng tái tạo gồm điện mặt trời, điện gió, thủy điện nhỏ và điện sinh khối chiếm 22,9%. Đến năm 2045 tỷ lệ này là thủy điện 11,5%, nhiệt điện khí - dầu 18,3% và điện năng lượng tái tạo tăng lên 40,2%.

Hình minh hoạ. Mỏ Lan Tây của Việt Nam ngoài khơi Vũng Tàu
Hình minh hoạ. Mỏ Lan Tây của Việt Nam ngoài khơi Vũng Tàu (Reuters)

Còn theo Tổng sơ đồ quy hoạch điện 7, do Bộ Công Thương giao Viện Năng lượng lập quy hoạch, dự kiến đến 2030, điện từ than chiếm 42,6%; khí tự nhiên chiếm 14,7% và năng lượng tái tạo chiếm 21%...

Dù đến nay theo Bộ Công thương, mới có khoảng 87,7% khối lượng nguồn điện trong Tổng sơ đồ 7 được thực hiện, khoảng 72% khối lượng lưới điện 500kV và khoảng 80% khối lượng lưới điện 220kV được triển khai, thực hiện.

Nhưng thông tin phải nhập 50% năng lượng vào năm 2035 theo Tiến sĩ Ngô Đức Lâm là không đúng với tình hình thực tế cũng như Tổng sơ đồ 8 hay nghị quyết 55 của Bộ Chính trị. Ông nói tiếp:

“Riêng với ngành năng lượng, cái mà trong nước đặt ra toàn bộ than cần cho phát điện là khoảng 45 - 50 triệu tấn, trong nước có khỏang 34 triệu tấn, chỉ nhập 10 triệu tấn, thế đã là nhiều rồi, phức tạp rồi, còn năng lượng nói chung thì ví dụ cần phải nhập xăng và dầu chẳng hạn... Chủ yếu của Việt Nam là thủy điện thì không phải nhập rồi.”

Theo Tiến sĩ Ngô Đức Lâm, chỉ có khả năng sau này Lào xây dựng những đập thủy điện trên thượng nguồn, thì có thể trong tương lai nhập điện từ thủy điện của Lào. Còn về khí đốt thì trong tương lai, khí hóa lỏng phải nhập, nhưng theo ông tỷ lệ cũng ít thôi, chứ chưa phải nhiều lắm. Ông giải thích thêm:

“Vì theo Tổng sơ đồ thì khí chỉ chiếm khoảng 15% tổng số, trong nước đã có 10%, chỉ nhập thêm 5% nữa thôi. Cho nên tôi thấy hơi lạ, nhập khẩu đến 50% thì không đúng đâu. Với lại trong nghị quyết 55, năng lượng sơ cấp sử dụng năng lượng tái tạo là phổ biến, do đó khả năng sử dụng năng lược gió và mặt trời, thì trong nước đã có.”

Trong nghị quyết 55, năng lượng sơ cấp sử dụng năng lượng tái tạo là phổ biến, do đó khả năng sử dụng năng lược gió và mặt trời, thì trong nước đã có.<br/>-TS.Ngô Đức Lâm

Tổng Bí thư, Chủ tịch Nước Nguyễn Phú Trọng hôm 18/2/2020 đã thay mặt Bộ Chính trị ký ban hành Nghị quyết số 55-NQ/TW về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Dù Nghị quyết số 55 là định hướng chứ không phải chính sách. Tuy nhiên theo Tiến sĩ Ngô Đức Lâm, khi mà định hướng của Đảng, của Bộ chính trị mà giao cho Thủ tướng Chính phủ, thì Thủ tướng sẽ ban hành thành chính sách rất cụ thể, và tất cả sẽ thực hiện theo định hướng này.

Vậy tỷ lệ nhập khẩu năng lượng bao nhiêu là hợp lý để đảm bảo an ninh năng lượng và tránh phụ thuộc?

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh nhận định:

“Tỷ lệ nhập khẩu và sử dụng năng lượng tùy thuộc vào mỗi nước khác nhau. Những nước xuất khẩu năng lượng họ có một tỷ lệ sử dụng năng lượng khác hơn. Còn những nước phát triển thì họ đang tận dụng tối đa nguồn năng lượng tái tạo để hạn chế nhập khẩu. Tại Việt Nam, vấn đề năng lượng nguyên tử cũng là một vấn đề đang tranh cãi. Trước đây, Việt Nam cũng có dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân, nhưng rồi Việt Nam lại hủy bỏ. Và bây giờ, lại đang có ý kiến của chuyện gia, là nên xem xét lại những dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân này.”

Dù khuyến khích sử dụng nguồn năng lượng trong nước, tuy nhiên Bộ Chính trị cũng nêu rõ trong nghị quyết số 55, là phải rà soát, sớm nâng cấp công nghệ của các nhà máy điện than hiện có để đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường; kiên quyết đóng cửa đối với các nhà máy không thực hiện nâng cấp công nghệ theo quy định.

Cũng trong Nghị quyết số 55, Bộ Chính trị nêu rõ, với ngành than, ngoài nhập khẩu, cần khẩn trương nghiên cứu công nghệ để có thể khai thác bể than đồng bằng Sông Hồng; nâng cao hệ số thu hồi than sạch trong khai thác hầm lò… để có thể giảm giá thành… giảm thiệt hại cho người dùng điện.

Tuy nhiên, Phó thủ tướng Trịnh Đình Dũng khi phát biểu tại Diễn đàn cấp cao về Năng lượng Việt Nam hôm 22/7/2020 cho rằng, để phát triển năng lượng hiệu quả, bền vững theo tinh thần Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị, từ nay tới năm 2025, Việt Nam cần lắp đặt thêm khoảng 5.000 MW công suất nguồn điện mới gồm cả năng lượng tái tạo, tức mỗi năm cần rót thêm từ 7 đến 10 tỷ USD đầu tư các dự án nguồn điện. Đây là số vốn ngân sách không hề nhỏ trong thời điểm hiện nay.

Thông tin cho rằng, tỉ lệ phủ thuộc nhập khẩu năng lượng của Việt Nam sẽ khoảng 33% năm 2025 và lên đến 50% vào năm 2035 mà Trưởng ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Văn Bình đưa ra cho thấy sự quản lý, quy hoạch của các bộ ngành tại Việt Nam, thiếu thống nhất, thông tin không rõ ràng, gây khó khăn và khó thu hút nhà đầu tư.