Trong dự thảo luật Tổ chức Tòa án Nhân dân sửa đổi đang lấy ý kiến, Tòa án Nhân dân tối cao đề xuất bãi bỏ nghĩa vụ xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính. Nghĩa vụ này được quy định trong Luật Tổ chức Tòa án Nhân dân năm 2014 đang có hiệu lực.
Điều 93 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định, chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp.
Lý giải cho đề xuất bãi bỏ nghĩa vụ xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ trong các vụ án dân sự, Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao Nguyễn Hòa Bình cho biết, cơ quan soạn thảo đã tham khảo rất nhiều luật của nhiều nước cho thấy không có quốc gia nào giao cho tòa án thu thập chứng cứ. Cũng theo ông Nguyễn Hòa Bình, nếu tòa án thu thập chứng cứ có lợi cho nguyên đơn thì lệch về bên nguyên đơn, có lợi cho bên bị đơn thì lệch về bên bị đơn. Vì vậy, không cho tòa thu thập chứng cứ để bảo đảm khách quan.
Khi người dân họ yêu cầu có luật sư đi theo mà nhiều nơi còn không chấp nhận cho đương sự đi cùng luật sư, thì làm sao đương sự có khả năng đối đáp, có khả năng nhìn ra những chứng cứ nào thiếu sót, và biết thu thập tại đâu. - Luật sư Nguyễn Văn Miếng
Luật sư Nguyễn Văn Miếng không đồng tình với lý giải của Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao, bởi lẽ việc thu thập chứng cứ và xét xử khách quan, công bằng là trách nhiệm và nghĩa vụ trong mọi trường hợp của thẩm phán. Không thể có chuyện có lợi cho bên nào. Ông nói thêm về những khó khăn hiện nay khi chính luật sư cũng không có thực quyền:
“Mặc dù theo Luật Tổ chức Tòa án Nhân dân hiện hành, tòa án phải thu thập chứng cứ. Nhưng thực tế khi chúng tôi yêu cầu tòa án cung cấp chứng cứ để phục vụ cho một vụ án dân sự nào đó thì tòa án họ cũng chẳng cung cấp. Họ để mặc cho chúng tôi tự bơi. Rồi có trường hợp chúng tôi đưa người đi lấy ADN để làm chứng cứ cho một vụ án thì cơ quan giám định họ bảo chúng tôi không có giấy của tòa án thì họ không làm. Khi chúng tôi trưng ra giấy thì họ bảo đó là giấy yêu cầu luật sư chứ không phải yêu cầu họ cung cấp.
Tức là bản thân tòa án hay các cơ quan dân sự không thực hiện các luật Nhà nước đưa ra. Họ rất tắc trách. Bây giờ nếu để mặc cho người dân tự thu thập chứng cứ theo luật mới khi luật có hiệu lực thì có nghĩa người dân phải tự bơi. Và như thế, hệ thống tư pháp phải hỗ trợ cho người dân, chứ không phải chỉ đứng bênh vực cho hệ thống tư pháp mà thôi.
Khi người dân họ yêu cầu có luật sư đi theo mà nhiều nơi còn không chấp nhận cho đương sự đi cùng luật sư, thì làm sao đương sự có khả năng đối đáp, có khả năng nhìn ra những chứng cứ nào thiếu sót, và biết thu thập tại đâu.”

Một khi tòa án không có nghĩa vụ thu thập chứng cứ để tôn trọng nguyên tắc tranh tụng, như ông Chánh án Nguyễn Hòa Bình nói, mà đẩy trách nhiệm qua cho người dân, là việc không phù hợp với thể chế ở Việt Nam hiện nay. Một luật sư có hàng chục năm kinh nghiệm trong các vụ án hình sự và dân sự, yêu cầu ẩn danh, nói với RFA rằng, tòa thu thập chứng cứ còn khó huống chi dân. Ông nói tiếp:
“Làm sao người dân có thể làm được việc thu thập chứng cứ như tòa án làm lâu nay. Ví dụ xem xét thẩm định tại chỗ thì đương sự đâu thể nào tự mình xem xét thẩm định tại chỗ được; giám định thiệt hại thì tòa án phải trưng cầu giám định; định giá tài sản thiệt hại hay tài sản tranh chấp thì tòa án phải ra quyết định định giá rồi hội đồng định giá sẽ tiến hành việc định giá; việc lấy lời khai cũng thế. Đương sự làm sao lấy lời khai của người này người khác được. Việc này phải là của tòa án. Đương sự chỉ có thể cung cấp lời làm chứng của ai đó qua một tờ giấy viết tay hoặc đánh máy mà thôi.
Những thao tác đó gọi là “thu thập chứng cứ”. Nếu tòa án không làm thì làm sao mà những người dân nghèo, ít hiểu pháp luật mà lại không có luật sư có thể làm được việc đó, khi phía bên kia là những người có tiền và có luật sư. Như thế sẽ tạo một sự bất công trong hoạt động tư pháp.
Việc thu thập chứng cứ trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính lâu nay tòa án làm thì cứ thế mà làm, không việc gì theo xu hướng luật của thế giới hết. Nếu thay đổi thì phải thay đổi toàn bộ giống nước ngoài đi. Theo xu thế của xã hội văn minh đi. Có lập pháp, hành pháp, tư pháp rõ ràng đi. Đừng thay đổi một phần vì sợ áp lực, sợ quá tải đối với tòa án mà đẩy phần khó cho dân như thế. Như thế là đánh đố người dân.”
Theo vị luật sư này, quan hệ đời sống, quan hệ tư pháp của Việt Nam không giống nước ngoài. Ví dụ, Việt Nam có ba cơ quan phối hợp với nhau trong tố tụng hình sự là Cơ quan điều tra - Viện kiểm sát - Tòa án. Nước ngoài không có như thế.
Những thao tác đó gọi là “thu thập chứng cứ”. Nếu tòa án không làm thì làm sao mà những người dân nghèo, ít hiểu pháp luật mà lại không có luật sư có thể làm được việc đó, khi phía bên kia là những người có tiền và có luật sư. Như thế sẽ tạo một sự bất công trong hoạt động tư pháp. - Luật sư ẩn danh
Điều 114 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định Cơ quan điều tra có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu và quyết định của Viện kiểm sát.
Đề xuất của Tòa án Nhân dân Tối cao bị cho là không phù hợp với thực tiễn; bởi tại Việt Nam, khả năng vận dụng các quy định pháp luật của người dân để tự chứng minh cho yêu cầu của mình còn rất hạn chế. Đặc biệt là trong các vụ án mà chứng cứ do cơ quan nhà nước nắm giữ thì người dân gần như ‘không có cửa’ trong việc tự thu thập và cung cấp cho tòa án.
Vụ án Thủ Thiêm là một ví dụ khi tấm bản đồ quy hoạch 1/5.000 khu đô thị mới Thủ Thiêm được ông Nguyễn Thanh Nhã, giám đốc Sở Quy hoạch - Kiến trúc TP.HCM, chính thức thông báo “không tìm thấy” trong buổi họp báo ngày 2 tháng 5 năm 2018.
Bản đồ quy hoạch này được ban hành kèm theo quyết định 367/QĐ-TTg ngày 4 tháng 6 năm 1996 của Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch khu đô thị mới Thủ Thiêm, là cơ sở pháp lý được coi là rất quan trọng trong vụ án Thủ Thiêm. Từ việc quy hoạch dự án đến việc thu hồi đất, xác định ranh giới giữa khu đô thị và phía ngoài khu đô thị.