Hạn mặn ở ĐBSCL tiếp tục nặng thêm

RFA
2024.06.04
Hạn mặn ở ĐBSCL tiếp tục nặng thêm Ảnh minh họa chụp tại Sóc Trăng trước đây.
AFP PHOTO

Trong báo cáo gởi Quốc hội cho phiên chất vấn với nhóm lĩnh vực tài nguyên và môi trường vào ngày 4/6/2024, Bộ Tài nguyên và Môi trường cảnh báo lượng nước ngọt về Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) trong tháng 5 năm 2024 thấp hơn trung bình nhiều năm khoảng 19%, xâm nhập mặn đang có xu thế sớm hơn và mạnh hơn.

Cảnh báo này có khác với dự báo của chuyên gia trước đây? Trong khi những ngày qua ĐBSCL đã phải gánh chịu hạn mặn nặng nề.

Phó Giáo sư - Tiến sĩ Lê Anh Tuấn, Phó viện trưởng Viện biến đổi khí hậu Đại học Cần Thơ, khi trả lời RFA hôm 4/6/2024, cho biết:

“Con số Bộ Tài nguyên Môi trường đưa ra phù hợp với dự báo của các chuyên gia trước đây. Bởi vì trước đó, mùa mưa của năm 2023 cho thấy lượng mưa giảm sút khá nhiều và dòng chảy trên sông Mekong cũng giảm, lúc đó các chuyên gia cũng đã dự báo rằng mùa khô 2024 mực nước lưu lượng sông Mekong sẽ giảm một khoảng trên dưới 10 %, nhưng có những tháng gay gắt như tháng 3, tháng 4… thì lượng giảm khá cao, giảm nhiều so với những năm trước đó khoảng 20 %.”

Các chuyên gia cũng đã dự báo rằng mùa khô 2024 mực nước lưu lượng sông Mekong sẽ giảm một khoảng trên dưới 10 %, nhưng có những tháng gay gắt như tháng 3, tháng 4… thì lượng giảm khá cao, giảm nhiều so với những năm trước đó khoảng 20 %.
-Phó Giáo sư - Tiến sĩ Lê Anh Tuấn

Ông Lê Anh Tuấn đánh giá việc chuẩn bị đối phó hạn mặn ở ĐBSCL năm nay:

“Tôi thấy người nông dân ở ĐBSCL đã rút kinh nghiệm hai đợt khô hạn gay gắt vào năm 2016 và 2020, cũng là thời điểm hiện tượng El Niño quay trở lại khu vực phía Tây biển Thái Bình Dương. Người nông dân đã thấy nguy cơ như vậy, cộng thêm những cảnh báo của các chuyên gia và cơ quan chức năng, nên họ chủ động xuống giống vụ đông xuân rất sớm khi mùa mưa mới chấm dứt và mực nước lũ bắt đầu giảm. Nhờ vậy phần lớn diện tích canh tác của vụ đông xuân đã kịp thu hoạch vào khoảng tháng hai.”

Tuy nhiên, theo ông Lê Anh Tuấn, hạn mặn vẫn gây thiệt hại một số diện tích trồng lúa, dù đã được cảnh báo:

“Có một số nông dân khi nghe tin giá gạo trên thị trường đang lên, nên họ đã làm thêm một vụ đông xuân muộn nữa, với hy vọng có gạo bán giá cao hơn… Nhưng rất tiếc, nguồn nước không như họ mong muốn khi mặn xâm nhập sâu hơn, nên một số nông dân bị thiệt hại. Nhưng số này không nhiều.”

Từ tháng 3 năm 2024 đến nay, các tỉnh ĐBSCL liên tục gánh chịu nắng nóng, khô hạn, và xâm nhập mặn. Theo Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia, hiện tượng này có thể tác động đến nguồn nước ngọt, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và đời sống của người dân, tại các tỉnh: Tiền Giang, Bến Tre, Hậu Giang, Trà Vinh và Sóc Trăng…

Một nông dân ở tỉnh Tiền Giang không nêu tên vì lý do an toàn, cho RFA biết tình hình thực tế:

“Bây giờ đợi ông trời cho mưa xuống thêm… chứ nước mặn mà gieo thì 15 năm chưa có làm lúa lại được… đã nói mặn rồi là nó ngấm xuống đất… xạ rồi thì hạt giống nó lên… nhưng lên gặp mặn là nói quéo…”

Không chỉ trồng trọt, theo người nông dân này, hạn mặn thì gà vịt cũng nuôi không được, trừ khi nuôi nhỏ lẻ, chứ những người nuôi trại khoảng chừng 2.000 con vịt… thì ‘nước người không có uống, nói gì cho vịt’.

fababc2f-2fcd-473f-89d9-41597380d34b.jpeg
Một người đàn ông đứng trên cánh đồng khô hạn ở Bến Tre hôm 19/3/2024. AFP.

Hạn mặn không chỉ gây thiệt hại cho trồng trọt, chăn nuôi và ảnh hưởng đời sống người dân, theo Phó Giáo sư - Tiến sĩ Lê Anh Tuấn, hạn mặn còn gây nhiều thiệt hại khác trong năm 2024:

“Có thêm một số vấn đề của năm 2024 là có gia tăng hiện tượng sụp lún ở các tỉnh ven biển như tại Cà Mau, Kiên Giang, Tiền Giang và một số tỉnh khác… Đồng thời cũng gia tăng hiện tượng cháy rừng ở An Giang, Kiên Giang… trong khi mấy năm trước không có hiện tượng này nhiều, nhưng năm nay cháy rừng nặng hơn.”

Phó Giáo sư - Tiến sĩ Lê Anh Tuấn giải thích nguyên nhân sụt lún và cháy rừng:

“Khi nguồn nước cung cấp cho vùng đồng bằng ít lại, thì đất trở nên co ngót, nên sụt lún nhiều. Hoặc thiếu nước thì công tác phòng chống cháy rừng sẽ khó khăn hơn, vì không có nguồn nước dự trữ trong rừng và rừng rất khô cộng thêm nhiệt độ cao nên nguy cơ cháy rừng rất lớn.”

Khi nguồn nước cung cấp cho vùng đồng bằng ít lại, thì đất trở nên co ngót, nên sụt lún nhiều. Hoặc thiếu nước thì công tác phòng chống cháy rừng sẽ khó khăn hơn, vì không có nguồn nước dự trữ trong rừng và rừng rất khô cộng thêm nhiệt độ cao nên nguy cơ cháy rừng rất lớn.
-Phó Giáo sư - Tiến sĩ Lê Anh Tuấn

Bộ TN&MT cho truyền thông Nhà nước biết trong những năm gần đây, do tác động của biến đổi khí hậu và ảnh hưởng của hiện tượng El Nino, tình hình hạn hán, thiếu nước thời gian qua ở khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên đang có xu thế gia tăng.

Tuy nhiên Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, một nhà sinh thái học và là chuyên gia về ĐBSCL, khi trả lời RFA vào tháng 3 năm 2024 lại cho rằng:

“Thực tế tôi thấy sông Mekong năm nay không cạn kiệt, mà thọc sâu có thể là do năm nay các tỉnh đã đóng cống ngăn mặn quá sớm và có nhiều công trình cống ngăn mặn mới xuất hiện. Khi đóng bít hết rồi thì khi thủy triều lên, nước mặn chỉ còn vào dòng chính, đẩy sâu vào trong đất liền, do không còn đường nào để lan tỏa.”

Còn Phó Giáo sư - Tiến sĩ Lê Anh Tuấn thì cho rằng, bây giờ hạn mặn càng ngày càng xuất hiện gần như là theo chu kỳ, do đó ĐBSCL nên có chiến lược điều chỉnh lại canh tác. Tức mùa khô không nên tập trung trồng quá nhiều lúa, bởi vì cây lúa là cây tiêu thụ nước rất nhiều. Ông Tuấn nói tiếp:

“Thứ hai là phải có kế hoạch dự trữ nước bằng cách nạo vét các ao hồ để trữ nước, hoặc là tậng dụng những nguồn nước vùng trũng để trữ nước, hoặc mở rộng diện tích chứa nước ở vùng tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười. Ngoài ra cũng phải có một số chương trình đưa nước từ vùng phía trên xuống các vùng ven biển, để cấp nước sinh hoạt cho người dân qua những đường ống. Cái này mặc dù kinh phí lớn, nhưng về mặt lâu dài phải xác định tới cách đó, để đối phó với nguồn nước càng ngày càng khó khăn hơn.”

Phó Giáo sư - Tiến sĩ Lê Anh Tuấn cho rằng, dự báo được tất cả các khó khăn như vậy mới có chiến lược đối phó tốt hơn. Phải chấp nhận hy sinh, ví dụ như giảm bớt diện tích trồng lúa để trữ nước cho cây trồng khác, hoặc có những biện pháp sử dụng nước tiết kiệm trong sản xuất hay trong sinh hoạt.

Nhận xét

Bạn có thể đưa ý kiến của mình vào khung phía dưới. Ý kiến của Bạn sẽ được xem xét trước khi đưa lên trang web, phù hợp với Nguyên tắc sử dụng của RFA. Ý kiến của Bạn sẽ không xuất hiện ngay lập tức. RFA không chịu trách nhiệm về nội dung các ý kiến. Hãy vui lòng tôn trọng các quan điểm khác biệt cũng như căn cứ vào các dữ kiện của vấn đề.

Nhận xét

Long Phạm
05/06/2024 11:34

Cả hai chuyên gia đều phân tích đúng không không phải nói khác nhau là đối nghịch nhau như RFA ám chỉ, đây là hiện tượng hay phương trình nhiều biến số nên hãy xem là họ bổ túc lẫn nhau.

Thế Chứ Lị
06/06/2024 02:34

Ở cuối bài, nhận xét và đề nghị giải pháp của ThS Thiện và PGSTS Tuấn rất hợp lý, khả thi, và đáng suy nghĩ.

ThS Thiện:
Thực tế tôi thấy sông Mekong năm nay không cạn kiệt, mà thọc sâu có thể là do năm nay các tỉnh đã đóng cống ngăn mặn quá sớm và có nhiều công trình cống ngăn mặn mới xuất hiện. Khi đóng bít hết rồi thì khi thủy triều lên, nước mặn chỉ còn vào dòng chính, đẩy sâu vào trong đất liền, do không còn đường nào để lan tỏa.” (Sau khi cống ngăn mặn đóng, thủy lộ ở hạ nguồn của cống sẽ cạn nước ngọt, nước biển tiến vào sâu thay thế gây ra ngập mặn!)

PGSTS Tuấn:
bây giờ hạn mặn càng ngày càng xuất hiện gần như là theo chu kỳ, do đó ĐBSCL nên có chiến lược điều chỉnh lại canh tác. Tức mùa khô không nên tập trung trồng quá nhiều lúa, bởi vì cây lúa là cây tiêu thụ nước rất nhiều. Ông Tuấn nói tiếp:

“Thứ hai là phải có kế hoạch dự trữ nước bằng cách nạo vét các ao hồ để trữ nước, hoặc là tậng dụng những nguồn nước vùng trũng để trữ nước, hoặc mở rộng diện tích chứa nước ở vùng tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười. Ngoài ra cũng phải có một số chương trình đưa nước từ vùng phía trên xuống các vùng ven biển, để cấp nước sinh hoạt cho người dân qua những đường ống. Cái này mặc dù kinh phí lớn, nhưng về mặt lâu dài phải xác định tới cách đó, để đối phó với nguồn nước càng ngày càng khó khăn hơn.” (VN “ta” cần một Biển Hồ nội địa - vừa ngăn lụt, vừa trữ nước canh tác.)

Phó Giáo sư - Tiến sĩ Lê Anh Tuấn cho rằng, dự báo được tất cả các khó khăn như vậy mới có chiến lược đối phó tốt hơn. Phải chấp nhận hy sinh, ví dụ như giảm bớt diện tích trồng lúa để trữ nước cho cây trồng khác, hoặc có những biện pháp sử dụng nước tiết kiệm trong sản xuất hay trong sinh hoạt.

Nay mai khi kênh đào Funan Techo được vận hành, vấn nạn thiếu nước ngọt=xâm nhập mặn càng thêm trầm trọng, cần hành động cấp thiết ngay bây giờ! Vấn đề “kinh phí” mà PGSTS Tuấn lo lắng quả là khó….mà dễ…..nếu có quyết tâm và tầm nhìn…..tỉ như các tỉnh thi nhau xây tượng/công viên/công trường “bác hồ muôn vàn kính yêu” mà mỗi công trình như thế tốn kém hằng 2000 đến 3000 tỉ đồng …. hay là hết canh tác được ĐBSCL chết đói cả lũ…. nhưng có thể ngắm “bác muôn vàn kính yêu” để cho quên đi bao tử cồn cào và dẹp lép!

Trần Văn Minh
11/06/2024 03:37

Tôi cho rằng hạn mặn bây giờ sẽ xảy ra thường xuyên và ngày càng khốc liệt. Hạn mặn không phụ thuộc vào mùa mưa năm trước mưa nhiều hay mưa ít vì lượng nước sinh thủy còn lại của lưu vực về mùa khô giảm khoảng 35% so với những năm trước 2000. Hạn hán và xâm nhập mặn hiện nay phụ thuộc hoàn toàn vào quá trình xả thủy điện thượng nguồn.
Các yếu tố khác: Đừng đổ lỗi cho biến đổi khí hậu, mực nước biển dâng cho là điều kiện khách quan, vì chỉ là phụ thôi.
Hai nguyên nhân chính gây hạn mặn: Mức độ sử dụng nước của các nước MRC tăng lên quá lớn (kể cả dẫn ra ngoài lưu vực) và hồ thủy điện tích không xả đủ khi có nhu cầu dùng nước quá lớn.
Vấn đề hạn mặn gây ra không chỉ do Việt Nam sử dụng quá nhiều mà đôi tượng là Thái Lan lấy đi bao nhiêu nước trên sông Mekong về mùa hạn là một bí ẩn: nước dẫn vào Thái Lan vào mùa khô váo các sông Mun, sông Chi trên 1.000m3/s, ngài ra có đường hầm lấy nước từ Mekong thương lưu thủy điện Park Beng cũng có thể đến hàng ngàn m3/s. Nếu nhu cầu nước tăng quá cao về mùa khô thì VN bị hạn hán là tất yếu.

Trần Văn Minh Email: tranminhbantl4@gmail.com
11/06/2024 03:50

Tôi cho rằng hạn mặn bây giờ sẽ xảy ra thường xuyên và ngày càng khốc liệt. Hạn mặn không phụ thuộc vào mùa mưa năm trước mưa nhiều hay mưa ít vì lượng nước sinh thủy còn lại của lưu vực về mùa khô giảm khoảng 35% so với những năm trước 2000. Hạn hán và xâm nhập mặn hiện nay phụ thuộc hoàn toàn vào quá trình xả thủy điện thượng nguồn.
Các yếu tố khác: Đừng đổ lỗi cho biến đổi khí hậu, mực nước biển dâng cho là điều kiện khách quan, vì chỉ là phụ thôi.
Hai nguyên nhân chính gây hạn mặn: Mức độ sử dụng nước của các nước MRC tăng lên quá lớn (kể cả dẫn ra ngoài lưu vực) và hồ thủy điện tích không xả đủ khi có nhu cầu dùng nước quá lớn.
Vấn đề hạn mặn gây ra không chỉ do Việt Nam sử dụng quá nhiều mà đôi tượng là Thái Lan lấy đi bao nhiêu nước trên sông Mekong về mùa hạn là một bí ẩn: nước dẫn vào Thái Lan vào mùa khô váo các sông Mun, sông Chi trên 1.000m3/s, ngài ra có đường hầm lấy nước từ Mekong thương lưu thủy điện Park Beng cũng có thể đến hàng ngàn m3/s. Nếu nhu cầu nước tăng quá cao về mùa khô thì VN bị hạn hán là tất yếu.
Yêu cầu lúa nước là mặt hàng xuất khẩu sẽ làm cho sông Mekong càng hạn mặn. Nếu THái Lan hoàn thành mục tiêu 3,8 triệu ha nông nghiệp khu vực Đông Bắc. Campuchia hoàn thành 2,5 triệu ha nông nghiệp 2 vụ, Lào 500.000 ha Nông nghiệp. Hạn mặn sẽ lên đỉnh điểm là mặn lên Trân Châu và Châu Đốc, hạn sẽ làm 90% diện tích lúa xuân hè không giao cấy được. Đồng bằng sông Cửu Long thành Sa Mạc theo mùa. Các cống ngăn mặn thành vô ích chỉ là biểu tượng một thời của VN mà thôi.
Giải pháp cấp nước của GS Lê Anh Tuấn không khả thi vì dẫn nước là vấn đề thủy lực cực kỳ phức tạp
Còn việc hạn chế trồng trọt trong nội bộ đồng bằng sông Cửu Long, tiết kiệm nước .... chỉ là giải pháp tạm thời mà thôi
Duy nhất là giải pháp phải điều phối dòng chảy hợp lý trên sông Mekong với nhiều kịch bản khác nhau
Ai quan tâm giải pháp ấy một cách nghiêm túc thì sẽ thành công
Trân trọng!