Các dự án yếu kém của ngành công thương nếu không thể phục hồi thì cần kiên quyết thanh lý, phá sản theo quy định của pháp luật, thu hồi tối đa tài sản Nhà nước. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc kêu gọi như vậy tại cuộc họp Chính phủ về các dự án kém hiệu quả của ngành công thương, chiều 3/3/2021.
Ông Nguyễn Xuân Phúc nói rõ, trong danh sách 12 dự án kém hiệu quả thuộc ngành Công Thương, nếu dự án nào không thể phục hồi thì phải nói rõ để tìm cách cho phá sản... chứ không nói chung chung là đang tốt hơn... nhưng trong thực tế vẫn đang lỗ, có khi còn lỗ nặng, càng xử lý, càng mất vốn.
Chuyên gia kinh tế, PGS. TS. Đinh Trọng Thịnh, thuộc Học viện Kinh tế Tài chính Việt Nam, vào ngày 5 tháng 3 nhận định với RFA về việc này:
“Vấn đề quan trọng trong các dự án không có hiệu quả là nếu như càng để càng lỗ, năm này qua năm khác thì còn tệ hơn. Cho nên nếu đã không hiệu quả mà cần cho phá sản thì nên cắt một lần đi cho xong. Tức là phải chịu lỗ, trong đó có một việc rất quan trọng là mang ra bán đấu giá, ban đầu theo giá trước đây đã xây dựng, nhưng nếu không ai mua thì cũng phải xem xét những người trả giá thấp để bán. Thà đau một lần, nhưng cắt khối ung nhọt khỏi cơ thể thì chúng ta mới mạnh khỏe. Có như vậy mới tập trung phát triển kinh tế trong trật tự tốt hơn.”
Vấn đề quan trọng trong các dự án không có hiệu quả là nếu như càng để càng lỗ, năm này qua năm khác thì còn tệ hơn. Cho nên nếu đã không hiệu quả mà cần cho phá sản thì nên cắt một lần đi cho xong.
-PGS. TS. Đinh Trọng Thịnh
Theo Bộ Công thương, trong 12 dự án thua lỗ nghìn tỷ điển hình như: Đạm Ninh Bình; Đạm Hà Bắc; Công nghiệp tàu thủy Dung Quất; Nhà máy DAP số 1-Hải Phòng; DAP số 2-Lào Cai; Nhà máy thép Việt-Trung; Nhà máy Đình Vũ; Công ty Gang thép Thái Nguyên... hiện có 1 công ty tài chính và 17 ngân hàng thương mại đang cấp tín dụng cho 12 dự án này, với tổng số dư nợ là gần 21 ngàn tỷ đồng. Ngoài ra, các ngân hàng còn cấp tín dụng đối với các chủ đầu tư có liên quan là gần 23 ngàn tỷ đồng.
Đây không phải là lần đầu tiên lãnh đạo Chính phủ kêu gọi như vậy. Vì sao những dự án này thua lỗ nhiều như vậy, cơ quan chức năng cũng biết, mà không thể phá sản?
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương khi trả lời RFA hôm 5/3, nhận định:
“Việt Nam thì cái chữ phá sản rất là nặng nề, vả lại để mà phá sản thì phải làm đầy đủ các thủ tục, tức là báo cáo về tài sản, các khoảng nợ, rồi thì phải thanh toán... Nếu như mà không làm được đầy đủ các thủ tục đó thì lúc bấy giờ sẽ rất khó mà phá sản. Còn theo Schumpeter thì phá sản là một sự tàn phá sáng tạo, nếu mà có phá sản, có ông chủ mới đầu tư vào đó, thì lúc bấy giờ có thể sẽ có một con phượng hoàng từ đống tro tàn bay lên. Kinh tế học nói như vậy, tuy nhiên không phải là dễ dàng, cho nên là phá sản là một thủ tục khó khăn ở Việt Nam, nếu không muốn nói đấy là một điều đau đớn đối với một số người có trách nhiệm trong việc quyết định các dự án đầu tư đó.”
Doanh nghiệp nhà nước Việt Nam làm ăn không hiệu quả, theo các chuyên gia kinh tế là do mục tiêu kinh doanh không rõ ràng và các vấn đề liên quan chính trị. Cải cách doanh nghiệp nhà nước là một xu thế tất yếu, không thể đảo ngược được. Nếu để những tập đoàn của nhà nước mà làm ăn kém hiệu quả sẽ gây thất thoát ngân sách, lãng phí, dẫn đến bội chi của ngân sách nhà nước, có nghĩa là tiền thuế của dân đã đội nón ra đi.

Nhưng để phá sản các doanh nghiệp hay dự án này, liệu những vướng mắc pháp lý có thể giải quyết, khi trước đây Bộ Công thương từng nhìn nhận có nhiều dự án ngàn tỷ làm với Trung Quốc thua lỗ không thể kiện? PGS. TS. Đinh Trọng Thịnh, giải thích:
“Thực tế thì cũng sẽ có những vướng mắt nhất định, và cũng có những cái phải xử lý. Bởi vì có những dự án hoàn thành nhưng chưa bàn giao, thậm chí có những dự án dở dang, nên nếu thanh lý sẽ có vướng mắt giữ nhà thầu và chủ đầu tư. Nếu nhà thầu không đúng với hợp đồng họ phải chịu trách nhiệm, còn nếu chúng ta không đúng và có những cái dây dưa kéo dài dự án thì phải xem xét trách nhiệm bồi thường hợp đồng theo trách nhiệm chung của hợp đồng giao thầu. Bắt buộc phải xử lý thôi.”
Trong báo cáo do Bộ trưởng Công Thương gửi các Đại biểu Quốc hội hôm 20 tháng 5 năm 2020 về kết quả xử lý yếu kém của 12 dự án thua lỗ thuộc các doanh nghiệp ngành Công Thương, có đến 5 dự án, doanh nghiệp có tranh chấp, vướng mắc hợp đồng EPC, dù đã đàm phán nhiều lần với đối tác Trung Quốc nhưng không thành công. Dù tổng vốn đầu tư của 5 dự án này lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng, tuy nhiên chủ đầu tư được khuyên không nên kiện, vì ít khả năng thắng.
Nếu như mà nhà thầu Trung Quốc không có mặt, không hoàn thành đầy đủ các thủ tục giấy tờ, thì sẽ rất khó khăn cho việc phá sản. Có lẽ trong trường hợp đó phải khai báo và có một quyết định đặc cách, thì mới có thể làm được theo Luật Phá sản của Việt Nam.
-Tiến sĩ Lê Đăng Doanh
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh cho rằng, các hợp đồng ký kết với phía Trung Quốc mà sau đó không có khả năng kiện, chứng tỏ việc ký kết các hợp đồng đó thiếu tính chuyên nghiệp và việc kiểm định giám sát các hợp đồng đó rất lỏng lẻo. Ông nói tiếp:
“Đấy là một vấn đề, cần phải làm rõ các bên liên quan và làm rõ các thủ tục. Nếu như mà nhà thầu Trung Quốc không có mặt, không hoàn thành đầy đủ các thủ tục giấy tờ, thì sẽ rất khó khăn cho việc phá sản. Có lẽ trong trường hợp đó phải khai báo và có một quyết định đặc cách, thì mới có thể làm được theo Luật Phá sản của Việt Nam.”
Ngoài ra, theo Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nếu không thể khiếu kiện tổng thầu, thì có thể kiện từng nhà thầu phụ mà tổng thầu đã ký lại:
“Hợp đồng tổng thầu là hợp đồng lớn, nhà tổng thầu có quyền ký lại với các nhà thầu phụ. Còn nếu không có tổng thầu thì phía Việt Nam có thể ký trực tiếp với từng nhà thầu một, như vậy mình có quyền hủy từng hợp đồng và khiếu kiện với từng hợp đồng. Còn thường với tổng thầu thì những việc đó tùy thuộc vào quan hệ của tổng thầu với phía Trung Quốc, và việc khiếu kiện trở nên khó khăn và phức tạp hơn.”
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, nguyên Phó Chủ tịch của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI, khi trả lời Đài Á Châu Tự Do vào ngày 16/9/2020 liên quan vấn đề này cho rằng, các doanh nghiệp nhà nước, đúng ra phải cố gắng trong đổi mới sáng tạo để làm sao nâng hiệu quả của chính mình và lôi kéo các ngành hàng cùng đổi mới theo hướng sáng tạo sao cho phù hợp với xu hướng chung của Việt Nam.
Tuy nhiên theo Bà Phạm Chi Lan, lâu nay các doanh nghiệp nhà nước này cũng nói nhiều tới việc đổi mới, nhưng chưa có gì rõ rệt. Thậm chí có khi những hình ảnh không đẹp về doanh nghiệp nhà nước, làm ảnh hưởng chung đến cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.