Nỗi oan chôn chặt 40 năm của một gia đình vì pháp luật lỏng lẻo

Diễm Thi, RFA
2019.04.26
5b4750345dh7_luuf Các nạn nhân đến nhận và xem lại quyết định đình chỉ vụ án ở VKS Tây Ninh hôm 4/4/2019.
Photo courtesy of thanhnien

Một gia đình bị bắt oan, bị tù oan rồi được thả đã không thể kêu oan suốt 40 năm qua vì luật lúc bấy giờ không quy định phải cấp giấy trả tự do cho người bị tạm giam.

Bị bắt, bị tra tấn, được thả

Chỉ trong hai đêm gần cuối tháng 7 năm 1979, một gia đình tám người ở Tây Ninh đang yên ấm bỗng tan nát bởi bị nghi liên quan đến “vụ cướp năm chỉ vàng” tại nhà máy xay xát ở ấp Bùng Binh, xã Đôn Thuận, H.Trảng Bàng tỉnh Tây Ninh.

Tám người bị bắt gồm vợ chồng ông Nguyễn Thành Nghị, bà Võ Thị Thương cùng con trai Nguyễn Văn Dũng (sinh năm 1961); vợ chồng ông Hồ Long Chánh, bà Nguyễn Thị Ngọc Lan với bào thai 5 tháng tuổi; vợ chồng ông Nguyễn Văn Chiến, bà Nguyễn Thị Lan; ông Nguyễn Văn Dũng sinh năm 1958 là em bà Nguyễn Thị Ngọc Lan.

Ông Nguyễn Văn Dũng sinh 1961 (Dũng nhỏ) nhớ lại:

“Cũng 40 năm rồi từ cái đêm 26-27/7/1979. Chỉ trong một đêm mà tám người trong thân tộc đau khổ cho tới bây giờ, tan nát đổ vỡ. Cả gia đình ly tán, con cái nhà cửa mất hết, tha phương cầu thực khắp nơi làm thuê làm mướn kiếm sống. Biết kêu ai vì mình là dân không rành về luật pháp. Đến bây giờ mọi người cũng trong hoàn cảnh khó khăn, bà già thì 94 tuổi rồi.”

Trong quyết định đình chỉ điều tra của cả tám người đều ghi bị nhục hình nên khai không đúng sự thật và bị tù oan.

Tại buổi gặp gỡ từng nạn nhân với đại diện Viện kiểm sát Nhân dân Tối cao (VKSNDTC) sáng 25/4 vừa qua, những nạn nhân vẫn nhớ như in tên của những người đã đánh họ. Luật sư Phạm Công Út, một người trong nhóm luật sư đại diện cho bảy nạn nhân khẳng định:

“Từng nạn nhân thì họ đều khai đích danh hai ông Phùng Văn Tiết và Nguyễn Văn Rức đã dùng nhục hình với họ một cách tàn nhẫn để buộc họ phải nhận một cái tội mà họ không hề gây ra. Đây là cơ sở xem xét trách nhiệm hình sự của hai người này. Vấn đề còn lại là thời hiệu. Trước mắt là cơ quan điều tra VKSNDTC sẽ khởi tố vụ án, khởi tố bị can.”

Ông Phùng Văn Tiết và Nguyễn Văn Rức là công an của đội Điều tra Công an huyện Trảng Bàng lúc bấy giờ.

Trò chuyện với RFA, ông Dũng sinh năm 1958 (Dũng lớn) cho rằng họ dùng nhục hình vì chuyên môn họ không có, sự phán đoán, nhận định sự việc không có cộng với tính độc đoán, mơ hồ họ bắt oan. Ông nhấn mạnh người dùng nhục hình với ông phải chịu trách nhiệm với ông vì chiếm đoạt tất cả tương lai sự nghiệp của ông.

Đại diện phía nguyên đơn (LS. Phạm Công Út) tại một phiên tòa.
Đại diện phía nguyên đơn (LS. Phạm Công Út) tại một phiên tòa.
Photo courtesy of baomoi

Sau hơn 3 năm 9 tháng, ngày 11/5/1983, cả gia đình được thả nhưng chỉ duy nhất một người có quyết định đình chỉ điều tra là ông Nguyễn Văn Dũng sinh năm 1958. Bảy người còn lại mang mặc cảm bị can suốt bao năm qua. Đến nay một người đã mất là ông Nguyễn Thành Nghị, người cao tuổi nhất đã 94, người nhỏ tuổi nhất cũng đã 58.

Ông Dũng lớn cho biết lý do vì sao chỉ mình ông có được quyết định đình chỉ lúc được thả:

“Anh là người duy nhất nhận quyết định đình chỉ. Những người kia được thả vào buổi sáng, anh được thả khoảng hơn hai giờ chiều chứ không cùng lúc. Mới đầu anh cũng nghĩ mình không cần giấy tờ gì cả và mừng như chim sổ lồng. Nhưng vì anh là quân nhân nên anh sực nhớ mình phải có giấy tờ gì để chứng minh với đơn vị là mình là người bị oan nên anh quay lại nhờ quản giáo cho xin miếng giấy trả tự do chứ anh cũng không biết nó là giấy gì. Sau này anh mới biết đó là quyết định đình chỉ điều tra.”

Vì sao không thể kêu oan?

Trò chuyện với RFA, Luật sư Phạm Công Út nhớ chi tiết số phận từng con người. Ông chậm rãi kể rằng khi được thả ra sau 1.386 ngày bị giam cầm họ trở về nhà thì nhà đã mất, ruộng không còn. Họ trắng tay không còn gì ngoài tiếng đời là một gia đình bất lương. Họ xấu hổ, đau đớn, tủi nhục rời bỏ xứ sở lưu lạc để trốn tránh thân phận ‘bị can’, nhưng họ không thể kêu oan vì họ không có giấy tờ gì chứng minh mình bị oan:

Thời điểm năm 1983 chưa có Bộ luật tố tụng hình sự, tất cả áp dụng bằng sắc luật 03/1976. Sắc luật lúc đó rất sơ sài và hệ thống bộ máy tư pháp chưa hoàn thiện nên việc tống đạt một văn bản tố tụng không có  biên bản ký nhận.

Bên cơ quan giam giữ thì do luật pháp chưa hoàn thiện, không quy định thủ tục thả người bị giam thì phải đưa giấy tờ và phải ký tên. Chỉ một mình ông Dũng yêu cầu quyết định ra tù để về trình báo đơn vị do biến mất mấy năm trời. Còn bảy người kia như những con chim sổ lồng, họ không dám đòi hỏi gì hết, họ chỉ mơ ước tự do mà thôi.

Họ không có gì chứng minh họ bị oan nên họ không có cơ hội kêu oan. Chữ nghĩa thì không biết, tiền bạc thì không có.

Theo luật sư Phạm Công Út thì khi truyền thông trong và ngoài nước cũng như dư luận lên tiếng mạnh mẽ thì bảy người còn lại nhận được bảy bản photocopy quyết định đình chỉ được ký từ năm 1983.

Luật sư Trịnh Vĩnh Phúc (một trong các luật sư đại diện) cùng ông Nguyễn Văn Dũng (Dũng lớn)
Luật sư Trịnh Vĩnh Phúc (một trong các luật sư đại diện) cùng ông Nguyễn Văn Dũng (Dũng lớn)
Photo courtesy of dantri

Vì trước đây chỉ có mình ông Dũng lớn có giấy tờ khi được thả nên chỉ mình ông có thể kêu oan, đòi bồi thường. Ông đã kiện, yêu cầu bồi thường hơn 10,4 tỉ đồng nhưng qua 2 cấp xét xử là TAND huyện Gò Dầu, TAND tỉnh Tây Ninh chỉ chấp nhận bồi thường 615 triệu đồng. Ông Dũng đang khiếu nại bản án trên. Ông cho biết khi giải quyết bồi thường không thỏa đáng thì ông đưa ngay ra tòa với mục đích lên tiếng cho những người còn lại:

“Mục đích anh đưa ra tòa để lên tiếng cho những người bị bắt chung trong vụ án này là thân tộc họ hàng, anh em ruột của anh.”

Ông Dũng nhỏ cho biết sau khi được thả vài năm cũng từng nghĩ đến chuyện đi kêu oan nhưng vô vọng:

“Mấy năm đầu có lên Viện kiểm sát hỏi thì họ nói giờ chưa có luật bồi thường nên về đi khi nào có thì họ gọi. Sau đó ông ở Viện kiểm sát chết rồi cũng không biết gì hết, không biết nhờ ai…

Trước kia thì tuyệt vọng vì tiếng kêu không thấu được ở trên. Đơn đi thì có mà đơn về thì không, không một ai trả lời hết. Nhiều năm tuyệt vọng rồi. Khi gặp được các luật sư thì tui tụi hy vọng có ngày mình được giải oan, được trả lại sự công bằng, trả lại quyền công dân.”

Bồi thường

Những nạn nhân chúng tôi được trao đổi qua điện thoại đều cho biết trước đây họ chưa bao giờ dám nghĩ đến ngày được minh oan chứ nói gì đến bồi thường. Bây giờ bồi thường với họ bao nhiêu cũng không thể bù đắp những mất mát quá lớn trong cuộc đời họ.

Luật sư Phạm Công Út cũng cho biết nguyện vọng lớn nhất của các nạn nhân là được minh oan một cách công khai:

Họ đòi hai vấn đề: Thứ nhất phải xin lỗi công khai tại địa phương nơi cư trú; phải cải chính trên báo chí trong ba số liên tiếp, báo trung ương và báo địa phương mà trường hợp này họ chỉ định báo Thanh Niên vì đã đồng hành cùng họ phủi lớp bụi thời gian của vụ án. Báo địa phương là báo tây Ninh.

Trong bảy người này có ba nơi cư trú. Một là xã Đôn Thuận, huyện Trảng Bàng tỉnh Tây Ninh. Số còn lại lưu lạc ở hai xã khác thuộc huyện Dầu Tiếng. Viện kiểm sát phải đến những nơi này tổ chức xin lỗi công khai các nạn nhân.

Thứ hai là phải bổi thường danh dự, sức khỏe, uy tín của họ bằng tiền và trả lại tài sản mất mát bằng hiện kim theo quy định của Nhà nước.”

Cụ bà Võ Thị Thương.
Cụ bà Võ Thị Thương.
Photo courtesy of Thanhnien

Bà Võ Thị Thương năm nay đã 94 bày tỏ nguyện vọng của mình với luật sư là bà muốn được minh oan để ngày bà về nơi chín suối bà sẽ nói với ông Nguyễn Thành Nghị rằng gia đình mình đã được minh oan. Bà giờ như ngọn nến trước gió không biết sẽ tắt lúc nào. Luật sư Phạm Công Út cho biết các luật sư đã cảnh báo với bên cơ quan làm oan (Viện kiểm sát Nhân dân tỉnh Tây Ninh) rằng phải làm đúng luật. Ông cho biết bất cứ sự chậm trễ nào trong việc minh oan cho người dân khi một trong những người này qua đời, sẽ tạo sự phẫn nộ ghê gớm. Nói về thủ tục minh oan, bồi thường, luật sư Phạm Công Út cho biết:

“Thủ tục bồi thường đã gởi cho bên cơ quan làm oan. Với sáu người còn sống thì bồi thường tính đến ngày 4/4/2019, riêng ông Nguyễn Thành Nghị thì tính đến ngày 23/4/2019 do thủ tục hành chánh.

Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước sửa đổi bổ sung 2015 thì sau khi thụ lý họ chỉ có 15 ngày để xác minh thiệt hại về tinh thần, thể chất, tài sản. Nếu phức tạp thì có thể kéo dài đến 30 ngày hoặc phải thỏa thuận với người bị oan về thời gian xác minh.

Theo luật mới thì bên yêu cầu bồi thường sẽ kèm theo yêu cầu tạm ứng kinh phí bồi thường trong vòng hai ngày làm việc sau khi thụ lý hồ sơ. Tôi hy vọng trong vài ngày tới thì những nạn nhân sẽ được nhận tạm ứng.

Vụ án oan 40 năm đã khép lại nhưng những tổn thất của những nạn nhân thì không thể nào bù đắp được bằng vật chất như lời ông Hồ Long Chánh:

Quá đau khổ, bây giờ có bồi thường bao nhiêu cũng không thể giải quyết được về tinh thần. Mấy chục năm mất mát từ tinh thần, vật chất, con người…đau cả thể xác lẫn tâm hồn.

Ông nói thêm rằng được minh oan con người trong sáng, trong sạch là một danh dự quá lớn lao và ông mang ơn những luật sư, họ là những đại ân nhân của gia đình ông.

Nhận xét

Bạn có thể đưa ý kiến của mình vào khung phía dưới. Ý kiến của Bạn sẽ được xem xét trước khi đưa lên trang web, phù hợp với Nguyên tắc sử dụng của RFA. Ý kiến của Bạn sẽ không xuất hiện ngay lập tức. RFA không chịu trách nhiệm về nội dung các ý kiến. Hãy vui lòng tôn trọng các quan điểm khác biệt cũng như căn cứ vào các dữ kiện của vấn đề.