Trong báo cáo do Bộ trưởng Công Thương Trần Tuấn Anh vừa thay mặt Chính phủ gửi các Đại biểu Quốc hội hôm 20 tháng 5 năm 2020, về kết quả xử lý yếu kém của 12 dự án thua lỗ thuộc các doanh nghiệp ngành Công Thương, có đến 5 dự án, doanh nghiệp có tranh chấp, vướng mắc hợp đồng EPC, dù đã đàm phán nhiều lần với đối tác nhưng không thành công.
Dù tổng vốn đầu tư của 5 dự án này lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng, tuy nhiên chủ đầu tư được khuyên không nên kiện, vì ít khả năng thắng.
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, khi trao đổi với RFA liên quan vấn đề này hôm 20/5, nhận định:
“Tôi rất lấy làm lo ngại các hợp đồng ký kết với phía Trung Quốc mà sau đó không có khả năng kiện. Chứng tỏ việc ký kết các hợp đồng đó thiếu tính chuyên nghiệp và việc kiểm định giám sát các hợp đồng đó rất lỏng lẻo. Tôi hy vọng đó là những bài học đau sót mà Việt Nam phải rút kinh nghiệm, phải có sự giám sát, kiểm định đó rất chặt chẽ, để tránh lập lại các hiện tượng này.”
Các hợp đồng ký kết với phía Trung Quốc mà sau đó không có khả năng kiện. Chứng tỏ việc ký kết các hợp đồng đó thiếu tính chuyên nghiệp và việc kiểm định giám sát các hợp đồng đó rất lỏng lẻo.<br/>-TS. Lê Đăng Doanh
Theo Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, hợp đồng tổng thầu là hợp đồng lớn, nhà tổng thầu có quyền ký lại với các nhà thầu phụ. Còn nếu không có tổng thầu thì phía Việt Nam có thể ký trực tiếp với từng nhà thầu một, như vậy mình có quyền hủy từng hợp đồng và khiếu kiện với từng hợp đồng. Còn thường với tổng thầu thì những việc đó tùy thuộc vào quan hệ của tổng thầu với phía Trung Quốc, và việc khiếu kiện trở nên khó khăn và phúc tạp hơn.”
Trả lời RFA hôm 20/5, Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, nguyên Phó Chủ tịch của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, nói:
“Tôi nghĩ cái này khi đàm phán với nhau không rõ ràng và không đưa vào văn bản cho đầy đủ. Ở đây có thể do trình độ hiểu biết của những người bên phía VN không hiểu biết về các vấn đề kinh tế, ngồi với họ có khi lại nói những chuyện hữu nghị đâu đâu... Còn những chuyện quan trọng nhất về lợi ích kinh tế lại không đảm bảo được cho đất nước. Thông thường nếu trong hợp đồng ký kết với nhau có làm rõ các điều khoảng về thưởng phạt, trách nhiệm các bên thì mới có thể đưa ra kiện. Chắc là không có những điều đó nên bây giờ mới nói là không làm gì được. Chứ còn nếu có thì đã căn cứ vào đó mà làm được rồi.”
Bà Phạm Chi Lan cho rằng việc này là do sơ hở ngay từ đầu khi ký các hợp đồng với phía Trung Quốc. Vì nếu làm ăn với các nước theo các hợp đồng thương mại hay hợp đồng đầu tư bình thường, khi có tranh chấp thì chỉ cần theo hợp đồng quy định đưa ra đâu, đưa ra trọng tài hay tòa án nào, áp dụng luật nào. Bà nói tiếp:
“Tôi không hiểu các hợp đồng doanh nghiệp nhà nước ký với phía TQ như thế nào mà để xảy ra tình trạng đó, cũng như tình trạnh đường sắt cát Linh - Hà Đông, nói rất nhiều, tiền đội lên, thời gian kéo dài mưới mấy năm mà cũng không xử lý được.”
Năm dự án, doanh nghiệp có tranh chấp, vướng mắc EPC, theo báo cáo của chính phủ, đều do nhà thầu Trung Quốc đảm nhiệm toàn bộ hoặc một phần. Gồm: Dự án cải tạo, mở rộng Nhà máy Phân đạm Hà Bắc, Dự án xây dựng Nhà máy sản xuất phân bón DAP số 2 - Lào Cai, Dự án nhà máy đạm Ninh Bình, Dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 của Công ty CP Gang thép Thái Nguyên và Dự án Xây dựng Nhà máy công nghiệp tàu thủy Dung Quất.

Tin cũng cho biết, số nợ của các dự án, doanh nghiệp này tại các tổ chức tín dụng rất lớn, đa số không trả được nợ đúng hạn. Hiện có 17 ngân hàng thương mại và 1 công ty tài chính đang cấp tín dụng cho 12 dự án, với tổng số dư nợ là gần 21 ngàn tỷ đồng. Ngoài ra, các ngân hàng còn cấp tín dụng đối với các chủ đầu tư có liên quan là gần 23 ngàn tỷ đồng.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cho biết, mặc dù số tiền ký kết hợp đồng đầu tư rất lớn, tuy nhiên không bao giờ được các doanh nghiệp nhà nước công khai, thậm chí những hợp đồng lớn của Tổng công ty hoặc Tập đoàn công nghiệp lớn của nhà nước ký, còn được đưa vào bí mật. Bà nói tiếp:
“Những yêu cầu tối thiểu trong các hợp đồng thương mại bình thường, thì các doanh nghiệp có trách nhiệm thường nhờ các chuyên gia có kinh nghiệm tư vấn cho họ, xem có ổn không thì họ mới dám ký. Nhưng ở đây các doanh nghiệp nhà nước lớn, nhiều khi những người lãnh đạo không phải là những người có chuyên môn, mà được bổ nhiệm theo các tiêu chuẩn về chính trị chẳng hạn, làm và cứ ký đại mà không tuân thủ các quy định thông thường mà các doanh nghiệp đã làm ăn là phải hiểu. Hai nữa là ‘tiền chùa’, tiền nhà nước, họ có mất tiền đâu. Doanh nghiệp tư nhân thì tiền của họ, họ phải lo từ đầu, còn doanh nghiệp nhà nước thì nhiều khi lại đi đêm với phía Trung Quốc, được lợi nên bỏ qua hết những lợi ích của quốc gia.”
Theo báo cáo của Chính phủ, tranh chấp của chủ đầu tư và nhà thầu điển hình như việc chưa thống nhất trong việc xác định giá trị quyết toán do thay đổi về thông số kỹ thuật, xuất xứ, số lượng thiết bị so với hợp đồng đã ký và khối lượng phát sinh ngoài nội dung hợp đồng đã ký.
Ngoài ra, chủ đầu tư và nhà thầu cũng bất đồng trong việc xác định thuế phải nộp và tiền phạt chậm nộp thuế; Chi phí chạy thử; Giá trị quyết toán thực tế không phù hợp với Hợp đồng EPC đã ký; Vấn đề bồi thường chi phí dịch vụ kỹ thuật kéo dài, bảo dưỡng, chi phí thay đổi thiết kế, sửa chữa công trình đã thi công...
Báo cáo của Chính phủ gởi Quốc hội cũng đưa ra hai giải pháp để xử lý. Một là đưa ra trọng tài hoặc tòa án để phân xử. Hai là chủ đầu tư tự quyết toán theo quy định của Thông tư 64 đối với trường hợp nhà thầu không thực hiện quyết toán hợp đồng theo quy định.
Tôi không hiểu sao bây giờ nhiều người còn không có hợp đồng mẫu, để có những căn cứ để họ thấy được những sai sót của họ trong hợp đồng, nên đã gây ra những tổn thất cho đất nước như thế.<br/>-Chuyên gia Phạm Chi Lan
Tuy nhiên, chính phủ cho rằng sau khi nghiên cứu hồ sơ, tư vấn đã khuyến cáo việc khởi kiện ra tòa trọng tài quốc tế, để xử lý tranh chấp Hợp đồng EPC, nhất là 3 dự án thuộc Tập đoàn Công nghiệp Hóa chất Việt Nam, sẽ không thuận lợi và khả năng thắng kiện thấp, chi phí theo đuổi vụ kiện lớn...
Để tìm hiểu thêm, RFA hôm 20/5 liên lạc Luật sư Nguyễn Văn Hậu, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài thương mại Luật gia Việt Nam, và được ông cho biết, nếu kiện mà thua thì vừa phải trả cho các nhà thầu Trung Quốc số tiền tranh chấp và cả số tiền chi phí theo đuổi vụ kiện:
“Vụ kiện này phải đưa ra trong tài quốc tế, khi VN tham gia WTO, có rất nhiều vụ kiện đã xảy ra, tôi thấy để theo đuổi vụ kiện đối với các nhà thầu TQ như thế này chi phí rất là cao. Ví dụ như chi phí đi lại, chi phí cung cấp chứng cứ cho hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp, mà đây là hợp đồng EPC, thiết kế, cung cấp thiết bị và thi công xây dựng của 5 trong 12 dự án ngàn tỷ. Trong những hợp đồng này, thông thường khi ký là những Hợp đồng FIDIC là những Hợp đồng xây dựng quốc tế, thì để giải quyết cái này, Hội đồng trọng tài phải làm rất nhiều việc. Chi phí sẽ rất tốn kém nếu chúng ta đưa ra trọng tài, như thuê tư vấn pháp lý quốc tế thì tốn tới hàng triệu đô la, chưa kể các chi phí khác.”
Theo Luật sư Nguyễn Văn Hậu, khi ký những hợp đồng quốc tế này doanh nghiệp nhà nước phải sử dụng luật sư để tư vấn pháp luật. Việt Nam cần phải quen việc luật sư tư vấn cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước, khi ký hợp đồng, đặc biệt là hợp đồng quốc tế, các đối tác họ cũng sử dụng luật sư ngay từ đầu. Bởi vì trong các hiệp định thương mại mà VN ký kết, đều có phần giải quyết tranh chấp giữa chính phủ VN và nhà đầu tư nước ngoài. Thông thường họ chọn trọng tài quốc tế và tòa quốc tế để giải quyết tranh chấp về thương mại. Theo luật sư Hậu nếu thuê công ty tư vấn luật từ đầu cho đến khi kết thúc dự án, thì sẽ không xảy ra rủi ro.
Vì lo ngại thua kiện, do đó báo cáo của Chính phủ cho rằng Bộ Tài chính cần phối hợp với các bên liên quan hướng dẫn việc chủ đầu tư tự quyết toán phù hợp với tình hình thực tế của các dự án hiện nay. Các dự án, doanh nghiệp không có khả năng khắc phục sẽ kiên quyết thực hiện phá sản, giải thể để thu hồi tối đa vốn, tài sản của nhà nước...
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan nhận định:
“Tôi không hiểu họ ký kết hợp đồng như thế nào, chứ hợp đồng EPC thì đáng lẽ càng rõ hơn. Ở VN thì đã có đào tạo từ những ngày đầu, sau năm 1975 những người phía bắc mà chưa quen lắm với các hợp đồng, quy chế đấu thầu chẳng hạn, của các nước phương tây, thì đã có ngay chương trình đào tạo. Như Ngân hàng Phát triển Châu Á ADB khi bắt đầu tài trợ cho VN vài dự án thì họ đã đào tạo ngay cho phía VN, cho những người của doanh nghiệp nhà nước mà hay đàm phán hợp đồng, họ dạy rất kỹ càng, đưa ra những tình huống nếu có phải giải quyết ra sao. Và nếu có sơ hở thì những hệ quả đến đâu...
Tôi không hiểu sao bây giờ nhiều người còn không có hợp đồng mẫu, để có những căn cứ để họ thấy được những sai sót của họ trong hợp đồng, nên đã gây ra những tổn thất cho đất nước như thế.”
Cuối cùng, Bà Phạm Chi Lan cho rằng, quan trọng nhất là chế độ trách nhiệm không rõ ràng đối với doanh nghiệp nhà nước, nên mới xảy ra việc không thể khiếu kiện Trung Quốc ra trọng tài quốc tế. Theo bà, nếu có chế độ trách nhiệm nghiêm ngặt, thì những người quản lý doanh nghiệp nhà nước đã đi hỏi chuyên gia, để mà làm việc cho tử tế hơn.