Bầu cử Tổng thống tại Hoa Kỳ
2016.04.27
Cuộc tranh cử Tổng thống tại Hoa Kỳ đi vào giai đoạn quyết liệt khi các ứng cử viên từ hai đảng chính là Dân Chủ và Cộng Hòa ráo riết thuyết phục cử tri của đảng ủy thác cho mình quyền đại diện đảng để ra tranh cử vào ngày Thứ Ba mùng tám Tháng 11 tới. Khác với nhiều lần trước, lần này cuộc tranh cử Tổng thống có đặc tính sôi nổi và thậm chí gay gắt trong khi một hồ sơ lớn là kinh tế lại chưa được các ứng cử viên trình bày cho rõ ràng.
Quyền hạn của Tổng thống
Nguyên Lam: Nguyên Lam xin kính chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Thưa ông, vòng sơ bộ của cuộc tranh cử tổng thống tại Hoa Kỳ đang đi vào kết thúc sau khi 17 chuẩn ứng cử viên đã bỏ cuộc để năm người còn lại trong hai đảng lớn cố gắng xin phiếu cử tri để được đại diện đảng tham gia cuộc tranh cử trên bình diện toàn quốc vào ngày thứ Ba mùng tám tháng 11 tới đây. Vì không khí tranh cử năm nay quá khác thường so với những lần trước nên Nguyên Lam đặc biệt đề nghị ông trình bày cho quý thính giả của chúng ta cùng hiểu thêm về một sinh hoạt chính trị quan trọng nhất của nền dân chủ Hoa Kỳ trong bối cảnh thật ra chưa mấy sáng sủa về kinh tế.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi rất thông cảm với đề nghị của cô Nguyên Lam vì mọi người gặp nhiều ngạc nhiên với vòng sơ bộ kéo dài gần một năm qua nên ta phải cố tìm hiểu và phần nào giải thích được những gì đã xảy ra. Đúng là cuộc tranh cử chính thức chưa bắt đầu giữa hai đảng mà chúng ta mới chỉ chứng kiến hai cuộc tranh cử song song ở trong hai đảng lớn là Dân Chủ và Cộng Hòa. Tôi xin khởi sự từ bước đầu tiên là trình bày về yêu cầu bầu cử.
Khác với nhiều quốc gia dân chủ, Tổng thống Mỹ thật ra không có toàn quyền, khi chấp chính thì phải dung hòa quan điểm với Lập pháp gồm hai viện của Quốc hội, với quyền Tư pháp cao nhất là Tối cao Pháp viện.
-Nguyễn-Xuân Nghĩa
Từ ngày lập quốc cách nay hơn 220 năm, Hoa Kỳ đã chọn thể chế cộng hòa trong ý nghĩa là người dân bầu ra các đại biểu của mình để giải quyết công vụ cho cả quốc gia. Trong số này, người đại biểu quan trọng nhất có nhiệm vụ cầm đầu Hành pháp, đấy là Tổng thống. Khác với nhiều quốc gia dân chủ, Tổng thống Mỹ thật ra không có toàn quyền, khi chấp chính thì phải dung hòa quan điểm với Lập pháp gồm hai viện của Quốc hội, với quyền Tư pháp cao nhất là Tối cao Pháp viện. Mà riêng về kinh tế thì lại không thể vượt qua được nhiều quyết định của một cơ quan độc lập là Ngân hàng Trung ương. Sau cùng, Tổng thống là đại biểu của chính quyền Liên bang còn phải tương nhượng với các đại diện dân cử cầm đầu Hành pháp của tiểu bang là các Thống đốc. Riêng về Quốc hội, Hạ viện gồm có 435 Dân biểu lại được người dân bầu lại cứ hai năm một lần và Thượng viện gồm 100 Nghị sĩ thì được bầu lại khoảng một phần ba cho một nhiệm kỳ là sáu năm. Vì vậy, điều đáng nhớ ở đây là Tổng thống Mỹ không có nhiều quyền hạn như người ta có thể lầm tưởng.
Nguyên Lam: Như ông vừa trình bày, Nguyên Lam xin được hỏi thêm rằng về mặt kinh tế thì Tổng thống Hoa Kỳ có thực quyền hay không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Điều đáng chú ý là trong nền kinh tế thị trường và lại toàn cầu hóa của Hoa Kỳ thì chính là thị trường, cả quốc nội lẫn quốc tế, mới chi phối sinh hoạt kinh tế mạnh nhất chứ không phải là Tổng thống. Thứ nữa, trong cơ chế chính trị Hoa Kỳ, Hạ viện mới có thẩm quyền nhất về ngân sách và thẩm quyền ấy cũng chi phối khả năng can thiệp của Tổng thống theo hướng này hay hướng kia. Sau cùng, Ngân hàng Trung ương với trách nhiệm về chính sách tiền tệ và tín dụng lại tác động mạnh hơn nhiều quyết định của Hành pháp.
Nền kinh tế thị trường có thể biển chuyển theo chu kỳ, khi thì tăng trưởng, khi lại bị suy trầm và Tổng thống cùng các định chế kia chỉ có khả năng ban hành những biện pháp giảm thiểu sự thiệt hại khi kinh tế bị suy trầm hay thậm chí khủng hoảng, chứ thật ra Tổng thống Mỹ không gây ra suy trầm kinh tế hoặc tự mình đẩy lui nạn thất nghiệp. Cái gọi là “công” hay “tội” ấy thuộc về tập thể, kể cả chính sách thuế khóa hay ngân sách của các tiểu bang, và tùy thuộc nhất vào thị trường có cả triệu cả tỷ người. Vì vậy mà người ta có tiểu bang bị thất nghiệp thấp và ngân sách quân bình trong khi tiểu bang khác lại bị bội chi hoặc tăng trưởng thấp khiến doanh nghiệp và công nhân có thể đi qua tiểu bang khác tìm lợi thế cao hơn. Tuy nhiên, trong vòng tranh cử thì các ứng viên có quyền nêu quan điểm về công hay tội của đối thủ và đề nghị chương trình cứu vãn và cử tri là thành phần phán xét sau cùng, bằng lá phiếu.
Ai chịu trách nhiệm nạn suy trầm kinh tế?
Nguyên Lam: Theo như ông trình bày thì phải chăng Tổng thống không gây ra nạn suy trầm kinh tế và nếu có biện pháp giảm thiểu nạn thất nghiệp hoặc thúc đẩy sự toàn dụng là tìm ra công ăn việc làm cho lực lượng lao động thì các biện pháp này là kết quả của sự hợp tác hay thậm chí của những mâu thuẫn giữa Hành pháp, Lập pháp và Ngân hàng Trung ương lẫn các Thống đốc và cả Quốc hội của tiểu bang. Thưa ông, sự thể có phải là vậy hay không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa là đúng như vậy và cũng vì vai trò của các tiểu bang mà chúng ta càng nên để ý đến vòng tranh cử sơ bộ. Luật lệ tranh cử Tổng thống Hoa Kỳ thường xuyên thay đổi ở hai cấp khác nhau; trước hết là trong nội bộ từng đảng của hai đảng chính, thứ đó là ở từng tiểu bang. Tinh thần chung và rất dân chủ là các tiểu bang nhỏ bé hay thưa dân cũng có quyền chi phối kết quả bầu cử ngay từ đầu chứ họ không bị loại ra khỏi tiến trình đề cử người đại diện và ứng cử viên chỉ cần hốt phiếu của một chục tiểu bang lớn nhất là thành Tổng thống!
Thứ hai là tại vòng sơ bộ, thành phần năng động và thiết tha nhất đến kết quả bầu cử là lớp người tự nguyện đã sớm vận động từ các quản hạt địa phương trở lên. Dù chỉ là thiểu số đầy nhiệt tình trước sự quan sát của đa số còn lại, họ gây ảnh hưởng lớn trong dư luận và vào cuộc tranh cử sau này khi tham gia cử tri đoàn tại địa phương và trở thành đại biểu tham dự Đại hội đảng vào mùa Thu của năm tranh cử. Vì nhiều yếu tố kinh tế, chính trị và cả tâm lý, thành phần đầy nhiệt tình ấy đang gây sôi nổi trong dư luận với những lập trường có thể là đơn giản và quá khích. Nhưng sau cùng thì từng bước tranh cử trong mỗi đảng sẽ tuyển ra người được đa số ủng hộ để có thể tranh thủ cử tri toàn quốc vào ngày bầu cử. Nhân đó thì ta cũng nên để ý là việc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ có thể thức gián tiếp hơn là trực tiếp. Dân Mỹ bầu ra cử tri đoàn hay đại biểu của đảng và thành phần này mới chọn Tổng thống.
Nguyên Lam: Thưa ông, phải chăng là vì vậy mà tại vòng sơ bộ của mỗi đảng, chúng ta chưa thấy các ứng cử viên trình bày chương trình hành động sẽ áp dụng sau này nếu họ đắc cử?
Thật ra Tổng thống Mỹ không gây ra suy trầm kinh tế hoặc tự mình đẩy lui nạn thất nghiệp. Cái gọi là “công” hay “tội” ấy thuộc về tập thể, kể cả chính sách thuế khóa hay ngân sách của các tiểu bang, và tùy thuộc nhất vào thị trường có cả triệu cả tỷ người.
-Nguyễn-Xuân Nghĩa
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi thiển nghĩ mục tiêu của việc tranh cử là tìm người có khả năng tranh cử giỏi nhất, tức là có tài tổ chức và huy động cảm tình viên trong thành phần tôi gọi là “có nhiệt tình”. Chính là thành phần tích cực này mới là lực lượng tiên phong đi vận động cho ứng cử viên của mình từ dưới cơ sở và sinh hoạt đó có màu sắc đích thực là dân chủ trực tiếp. Vì Hoa Kỳ là quốc gia rộng lớn với quá nhiều khác biệt nên việc bầu cử lãnh đạo tối cao đã tiến hành thật sớm và kéo dài quá lâu. Việc vận động tiền quyên góp và ủng hộ là cần thiết để bộ máy tranh cử có thể duy trì nhịp độ hoạt động cho tới kết quả sau cùng, nhưng dù cần thiết, tiền bạc vẫn không là yếu tố quyết định. Những ai cứ cho rằng các thế lực tiền bạc hay tài phiệt có thể bố trí để người này người kia lên làm Tổng thống Hoa Kỳ đã thấy điều này không đúng và trong số 17 chuẩn ứng cử viên đã bị loại bỏ từ đầu năm nay, nhiều người có quỹ tranh cử rất dày mà cũng chẳng mua được phiếu và không tranh thủ được thành phần tích cử ở cơ sở.
Nguyên Lam: Quả thật là cuộc tranh cử năm nay cho thấy rằng tiền bạc không chi phối được kết quả bầu cử. Nhưng thưa ông, yếu tố thành công quan trọng nhất là gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Có một nghịch lý là cuộc tranh cử nhắm vào người có tài tranh cử cao nhất, với ban tham mưu tranh cử có khả năng tổ chức để từng bước tranh thủ và thuyết phục được các tiểu bang trong một cuộc đua kéo dài. Người đắc cử chưa chắc đã thành tổng thống giỏi. Lý do là khi tranh cử, các ứng viên có thể nghĩ thế này và nói thế nọ về những việc sẽ làm nếu mình đắc cử, mục đích chỉ là để thắng cử mà thôi. Chứ vị Tổng thống tân cử sẽ sớm khám phá rằng sự thật lại phức tạp hơn vậy và không dễ giải quyết một cách đơn giản bằng khẩu hiệu tranh cử. Chuyện thứ hai là vị Tổng thống tân cử lại còn bị yếu tố bất ngờ và lãnh di sản cũng bất ngờ của người tiền nhiệm.
Thí dụ như khi tranh cử năm 2000, Thống đốc Texas là ông George W. Bush chủ trương ưu tiên cải cách kinh tế xã hội bên trong và đề cao tinh thần khiêm cung với bên ngoài chứ không nên áp đặt các giá trị tinh thần của nước Mỹ cho xứ khác. Nào ngờ là sau khi đắc cử, ông gặp biến cố bất lường là vụ khủng bố 9-11 năm 2001 khiến Hoa Kỳ, một siêu cường hải quân, lại khai chiến trong một khu vực hiểm trở bị khóa trong lục địa là Afghanistan. Khi tranh cử năm 2008, Nghị sĩ Barack Obama hứa hẹn triệt thoái khỏi chiến trường Iraq rồi Afghanistan mà rốt cuộc là gần hết hai nhiệm kỳ của ông, binh lính Mỹ vẫn hiện diện ở hai nơi đó và còn phải tham chiến tại Syria để chống tổ chức xưng danh Nhà nước Hồi giáo ISIL. Nhìn xa hơn vào lịch sử, ông Abraham Lincoln chẳng thể ngờ là khi làm Tổng thống, ông phải lấy quyết định quân sự khốc liệt trong trận Nội Chiến và lại còn cho tạm hoãn đạo luật bảo vệ nhân thân “habeas corpus”. Khi tranh cử, ông không nêu lập trường gì về quy chế nô lệ mà cuối cùng lại giải phóng nô lệ.
Nguyên Lam: Bây giờ, chúng ta bước qua hồ sơ kinh tế. Thưa ông, vị Tổng thống tân cử của Hoa Kỳ sẽ long trọng tuyên thệ nhậm chức vào ngày Thứ Sáu 20 Tháng Giêng năm 2017 phải làm những gì với các vấn đề kinh tế của nước Mỹ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi nghĩ vị Tổng thống tân cử sẽ khám phá là tình hình kinh tế xã hội lại còn khó khăn hơn nhận thức ban đầu và chính những khó khăn ấy mới khiến cuộc tranh cử năm nay có không khí quyết liệt. Khó khăn đầu tiên không thể giải quyết một mình trong một nhiệm kỳ bốn năm là sự sa sút về mức sống của thành phần trung lưu. Chiều hướng ấy xảy ra từ vài chục năm nay và trở thành gay gắt hơn sau nạn Tổng suy trầm năm 2008. Hồ sơ thứ hai là kinh tế Mỹ giảm đà tăng trưởng trong khi mắc nợ nhiều hơn vì bội chi ngân sách lẫn thâm hụt sẽ còn tăng của các quỹ An sinh Xã hội, Trợ cấp Y tế và Bảo hiểm Sức khỏa cho toàn dân. Muốn giải quyết việc nợ nần quá lớn này thì phải có tăng trưởng để thêm nguồn thu thuế khóa, muốn giảm mức bội chi thì phải tăng thuế nhưng tăng thế nào để khỏi gây bất lợi cho sản xuất? Đây chỉ là ba hồ sơ nóng nhất trong cả chục hồ sơ mà vị Tổng thống thứ 45 của Hoa Kỳ không thể có chìa khóa thần kỳ và lại phải dung hòa quan điểm với Lưỡng viện Quốc hội. Điển hình là các hiệp ước tự do thương mại mà chúng ta đã có lần đề cập váo tháng trước.
Cảm nghĩ sau cùng của tôi là hình như các bậc Quốc phụ của nước Mỹ cố tình tạo ra ách tắc chính trị để Chính quyền gồm có Hành pháp và Lập pháp kiềm chế nhau trong khi lại mở rộng không gian sinh hoạt cho các công dân và chính là công dân với quyền tự do sẽ tìm ra giải pháp thỏa đáng cho đa số trong xã hội. Có lẽ đấy là một đặc tính của nền dân chủ Hoa Kỳ.
Nguyên Lam: Xin cảm tạ kinh tế gia Nguyễn-Xuân Nghĩa về cuộc phỏng vấn này.