Nguyễn Thị Hậu và Tiểu Anh trong tuyển tập “Bông và Giấy”
2010.05.23
“Bông và Giấy” là tên một tuyển tập thơ của 30 nhà thơ, theo như trang mở đầu cho biết họ thường có mặt tại một quán cà phê trên đường phố Sài Gòn. Bông và Giấy có những nét rất duyên, ngay từ trang bìa, cách thiết kế cũng cho thấy có một điều gì đấy thật sự bùng vỡ, hay ít ra là cố vượt thoát cái chật chội bức bối của không gian trang bìa.
Ba mươi tác giả trong đó không hiếm những người đã nổi tiếng như Inrasara, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Lê Vĩnh Tài, Nguyễn Quang Thiều hay Phan Huyền Thư, Nguyễn Thị Ánh Huỳnh ...
Ba mươi cách thể hiện và cùng lúc có mặt trong một tập thơ tương đối mỏng có lẽ là điều hiếm thấy. Chúng tôi quyết định chọn hai tác giả nữ trong tuyển tập này để nói đôi điều về tác phẩm của họ, đó là NguyễnThị Hậu và Tiểu Anh. Hai tác giả cùng với hai cách diễn đạt ấn tượng đã thật sự chinh phục chúng tôi từ lúc giở những trang in đầu tiên.
Trong khuôn khổ một bài viết có giới hạn thời lượng của chương trình, chúng tôi xin mạn phép để 28 tác giả còn lại cho một lần viết khác.
Câu hỏi đầu tiên đối với tuyển tập mang tên “Bông và Giấy” là: Tại sao lại Bông và Giấy?
Tiểu Anh cho chúng ta biết cái tựa của tập thơ khá ngộ nghĩnh này phát xuất từ một quán cà phê của Sài Gòn, nơi đó thường tụ tập những cây viết của nhiều thể loại và dần dà quen thân với nhau sau nhiều năm gặp gỡ. Bông và Giấy đã thân thiết với họ và từ đây thành tên của tập thơ.
Nguyễn Thị Hậu và những mẩu tản văn đậm chất thơ
Người đọc thơ sau nhiều năm quen với loại thơ có những dòng giới hạn, bỗng nhiên khi những tiết tấu khác lạ so với thơ đập vào tai mình thì cảm giác đầu tiên là suy đoán: đây là loại thơ mới, như Tân hình thức chẳng hạn ...
Thật ra những bài viết của Nguyễn Thị Hậu trong tập thơ Bông và Giấy hoàn toàn không phải là thơ nhưng lại gần với thơ một cách kỳ lạ. Nguyễn Thị Hậu cho biết đây chỉ là những tản văn rời mà phần lớn bà muốn chia sẻ trong trang blog của mình.
Thế nhưng khi bạn bè của cà phê Bông Giấy tin rằng nếu đứng chung với những bài thơ khác thì những mẩu tản văn đậm chất thơ này không hề lệch pha mà trái lại sẽ làm cho Bông Và Giấy khác hẳn với những tuyển tập thơ khác. Đa dạng hơn và nhất là tươi hơn.
-Mùa thu năm nay có những ngày mưa thật lạ lùng…
Ngỡ chỉ ở Sài Gòn còn những cơn mưa cuối mùa sầm sập quất xuống hàng cây ràn rạt lá, quất xuống dòng người câm nín giữa đường kẹt xe, quất lên những mái tôn liêu xiêu trong hẻm nhỏ…
Ở Hà Nội cũng vậy.
Buổi sáng, ngồi quán café vỉa hè Lê Thánh Tông nghe hơi thở mùa thu tràn về trên vòm lá xanh mướt, mát mẻ, trong trẻo, nhẹ nhõm… Chiều đến không khí lại oi nồng, mây đen kéo đến, bỗng chốc mưa dông ầm ầm, đường phố ngập nước.
Nguyễn Thị Hậu vừa đọc cho chúng ta nghe một đoạn trong bài “Quý bà Mùa Thu”. Nếu không được tác giả cho biết trước là theo thể loại tản văn thì ai trong chúng ta sẽ nói rằng đây không phải là thơ?
-Lần đầu tiên ra biển, bất ngờ ngụm nước biển tràn vào miệng, cô bé 5 tuổi kêu lên nước canh ở đây mặn quá! Nhưng từ đó vị mặn mòi của biển đã trở thành kí ức trở về mỗi khi lòng cô không yên tĩnh.
Mười lăm tuổi ra biển, cô thiếu nữ mơ ước một cánh buồm đỏ thắm cô đơn hiện ra nơi đường chân trời và mặt biển xanh thẳm không còn ranh giới.
Hai mươi lăm tuổi ra biển, đêm không trăng trên bãi cát dài, lắng nghe lời khuyên của sóng, cô hiểu mình cần phải đi tiếp quãng đời còn lại, dù chỉ một mình…
… Nhiều năm trôi qua, không còn ở tuổi 15 mơ mộng, không còn ở tuổi 25 đầy kiêu hãnh, lần này chị ra với biển, với núi, với trăng 14 nguyên vẹn như kí ức. Sóng vẫn bình yên như thế, bình yên ngàn năm như thể một ngày. Cảm giác bình yên của sự tỉnh táo, cánh buồm đỏ mãi chỉ là ước mơ…
Rất ngậm ngùi, ngôn ngữ thơ của Nguyễn Thị Hậu dẫn ta về ngược với thời gian trước đây trong từng độ tuổi. Thời gian cùng với biển, hai phạm trù mênh mông và hiền lành. Nhưng trong cái mênh mông hiền lành ấy liệu có chút lừa lọc nào không mà loài người ngược xuôi hoài vẫn không thoát ra được chất ngất ước ao về những điều mà thời gian hay biển cả có thể làm được cho mình.
Một ân sủng từ mênh mông đem tới cho chúng ta chăng? Hay khát vọng biến mình thành kình ngư vẫy vùng trong hố sâu tuyệt vọng? Nguyễn Thị Hậu lặng lẽ và hiền lành tin rằng Biển và Thời gian không từ bỏ niềm tin của mình, và thật nhẹ nhàng, Hậu tìm thấy câu trả lời đậm chất Thiền ẩn trong những giọt mực cuối cùng: Sóng vẫn bình yên như thế, bình yên ngàn năm như thể một ngày. Cảm giác bình yên của sự tỉnh táo, cánh buồm đỏ mãi chỉ là ước mơ…
Phải chăng bình yên và tỉnh táo mãi mãi chỉ là ảo tưởng khi con người vẫn luôn ước mơ. Ước mơ và ảo tưởng là hai kẻ sinh đôi, giống nhau như đúc và không hề lên tiếng phủ nhận ai là người được hạ sinh ra trước.
Tiểu Anh với Dòng thơ hiện thực
Nếu “Nhớ Biển” của Nguyễn Thị Hậu đậm chất nữ với những câu hỏi dung dị thì Tiểu Anh lại tỏ ra rực rỡ hơn dưới chiếc áo của dòng thơ hiện thực. Hục hặc, dày xéo và không thiếu những thanh âm gây gỗ, Tiều Anh hỏi người, hỏi đời rồi tự hỏi mình với những câu hỏi mà cô gọi là “Những câu hỏi tháng Ba”. Bài thơ ngắn, giản dị nhưng đầy ắp chi tiết, nhất là những chi tiết rừng rực hơi hám cuộc sống.
Câu hỏi tháng 3
8
Phải chăng
chúng mình chẳng bao giờ có thể
lớn lên
vì oằn trên lưng
cõng
dăm thằng khổng lồ và hàng vạn nỗi đau
chẳng thể chờ
khi loay hoay với cơm áo
không vui như trò đánh đáo
nhưng vẫn phải bày cuộc
anh ra đi tháng ba
quẳng lại sau lưng lời chia tay cũ rích
dòng đời ngắn ngủi
em về soi bóng mình
dưới sông một con hủi
đầy đủ 10 ngón tay dài, thon, nhọn
nhưng không thể cầm nắm bất cứ thứ gì
vậy mà vui
mọi người đều thành gù
mọi người đều phải chơi
mọi người như là hủi
em không khóc, lâu rồi, không khóc
chỉ ngồi hát ca
sao tháng ba
mưa giăng giăng thế?
Mưa giăng giữa tháng Ba có gì quá khó hiểu không khi hiện thực cho thấy khu vực sinh thái của con người ngày càng nhỏ lại? Tháng Ba cũng mưa là một hình thức đe dọa từ thiên nhiên, đe dọa cảm giác an tâm, chai lì của cuộc sống. Vậy ra Tiểu Anh đang cảnh báo chúng ta ư?
Tháng 3 vỡ miệng
Tháng ba
ngửa mặt hỏi
trận cuồng phong trái mùa
trút
gió gào ấm ức, trả lời
tiếng sấm đấm thùm thụp
xả đớn đau
Tháng ba
điệu vũ phồn hoa
cô gái nhỏ điệu múa dân tộc mê hồn
ngoại bang
cô không sinh vào 30 năm trước
sao biết nước hoa tinh chế từ máu hạng sang.
tháng ba vân vũ trắng
co ro lạnh trời
răng cắn vào môi
mưa axit
vết thương vỡ miệng
Nhìn đi
đâu chỉ là dông tố tháng ba...
Thì ra trong cái sấm chớp tháng Ba ấy Tiểu Anh nói với chính mình. Với chính những cơn đau thật cộng hưởng từ sấm chớp. Mưa a xit là một hiện tượng thiên nhiên nhưng lại có khả năng làm nhiều vết thương lòng vỡ miệng. Phải chăng sự bức tử thiên nhiên đang trở lại hành hạ con người?
Bằng ngôn ngữ của ẩn dụ, Tiểu Anh kéo chiếc màn nhung cuộc sống cho người đọc xem một vở diễn chỉ xuất hiện một lần. Một nhân vật. Một tình huống.
Mặt nạ tháng 3
“Uổng ngàn năm thâu góp báu Càn Khôn,
Sẩy một phút, tan tành trường phong nguyệt.”
Tháng 3 mưa
loang loáng mụn thủy đậu vỡ
uể oải thành phố trở mình
hầm hập cơn sốt
vết thẹo trượt dài
toác miệng nhiễm trùng
cơn dịch tháng 3
Nguyệt cô gào thét
vang vọng khóc ời ời
Ngọc người có rơi ở phương Đông
Rừng cháy, rừng chặt
trơ khô khốc
ngàn năm tu luyện hóa hư không
tháng 3
vết thương loét
con vi trùng kháng thuốc
mặt nạ tuồng xanh đỏ
vở diễn trái mùa
cau có
Tiết Giao vẫn tuôn lời
sáo ngữ, xảo ngôn
Sài Gòn rên ư ử
...
Nếu Tiểu Anh nói về cuộc đời bằng chất liệu của trầm uất trong không gian thi ca thì Nguyễn Thị Hậu nhìn cuộc sống chung quanh với cái nhìn tỉnh táo của một thị dân đang hòa nhịp sống của chính mình vào dòng chảy mênh mông đầy bụi bậm này.
Tỉnh táo nhưng người đọc cảm nhận được một chút ngỡ ngàng trong cái quan sát gần của đôi mắt ít nhiều mệt mỏi. Tác giả lắng nghe âm thanh của dòng nhạc quen thuộc mà ngỡ như đang xem khúc dạo đầu của một đoạn phim tài liệu, miêu tả nỗi bức bách của những dở dang cùng những bất cập của bao đi khuya về tắt.
Đi ngang qua 1 chiếc xe hơi sang trọng, người trong xe hạ cửa kính ngó nghiêng gì đấy, thoáng nghe một bài hát xa xưa…
Ôi, sao những lời ca tình yêu đẹp mênh mang như thế lại vang lên trong cái oi bức bực bội giữa thành phố chật chội này nhỉ… Ngoái lại nhìn, cánh cửa xe đã đóng kín, lớp kính đen mờ không thể trông thấy
chủ nhân đang ung dung trong chiếc xe máy lạnh. Ừ, ngồi trong xe máy lạnh nghe bài hát kia mà mơ về một chốn núi cao rừng sâu, bầu trời đêm thăm thẳm lấp lánh những vì sao xa, và có hai người yêu nhau… Mặc kệ đào đường với lô cốt với kẹt xe, mặc kệ cơn dông mùa hè đang dậm dọa, mặc kệ bụi mặc kệ khói… chỉ có hai người yêu nhau…
Khác với Nguyễn Thị Hậu thu nhận hình ảnh cuộc sống bằng lăng kính hiền lành, Tiểu Anh dữ dội cào cấu nó và cuối cùng bật cắn vào đôi vai mà cô gọi là cuộc đời. Cùng là vết cắn khắp châu thân nhưng có chỗ đau có chỗ lại lẳng lặng tái tê niềm sảng khoái. Nét lạ trong thơ Tiểu Anh làm người đọc khá bất ngờ và từ cảm nhận ban đầu, giờ đây tác giả đã có khả năng dẫn người đọc thơ của cô vào sâu hơn trong thế giới thi ca nhiều màu sắc mà Tiểu Anh phù phép.
Cắn
cắn vào cuộc đời
nghe tiếng vô minh rền óc
nghe âm vọng bán mua
nghe kinh cầu an lừa dối
và nghe đau
một linh hồn chưa nghén phôi thai
cắn vào cuộc tình
máu tuôn mắt
chờ chớp lóa giữa cơn dông
em xanh như cỏ, hương như kẹo
đắng lòng anh mấy cõi du du
cắn chặt vào đêm
ễnh ương uồm oàm mưa bão
sonata vang vọng Thiên Cầm ngân
cắn vào em
bừng thức
những bông hoa nín thở
đêm hè
Như chúng ta thường gặp ở nhiều nhà thơ nữ, dù phá phách bao nhiêu cuối cùng thì mảnh vườn chữ nghĩa của họ vẫn sáng bừng lên thứ ngôn ngữ tinh túy nhất, hàm chứa biết bao dịu dàng và nhân ái. Tiểu Anh cũng vậy, nhà thơ trở lại với bức tranh cổ điển để nói lên một điều rất đơn giản: Em vẫn chờ anh...
Trang kinh trăng
Thôi người về ta ở lại chờ trăng
tháng Chạp rằm hương phả
đèn nhang khói rét
ngộp lo toan
áo nỉ quàng khăn sin sít bó
lòng chật hẹp
dập đầu cầu, dập đầu khẩn
bả tình mua bán những lương tri
vang vọng xa im lìm lịm giấc
ê ả trang kinh đong đẩy đưa
chiều ngả xám
mặc kệ người tháng Chạp
mọc đầu hôm
tầm cầu khối thạch cao trơ phông phỗng
mép cười sư nhoen nhoẻn nhếch
sãi lòm khòm khom polime
gom góp gom
xào xạc sao bay niềm tin rơi
tia le lói
đêm vẫn tròn vành
Trang kinh trăng em xếp lại chờ anh
Và Nguyễn Thị Hậu cũng thế, những cánh hoa dã quỳ trong ký ức vẫn nở vẫn khao khát sống sau những tàn phá của cuộc đời. Dã quỳ vươn lên sống trong bất cứ hoàn cảnh khắc nghiệt nào khiến tác giả tự thân so sánh mình với loài hoa dịu dàng mà khắc khổ kia với nỗi tê tái đắng chát và khó lòng dấu diếm:
Qua một mùa nắng gắt tưởng như đã cháy khô đến tận gốc, qua một mùa mưa trôi đất tưởng như không còn chỗ để rễ nảy mầm, chớm đông về dã quỳ lại hồi sinh, tươi mới, hồn nhiên, duyên dáng… Dù vậy, vẫn là dã quỳ cứng cỏi, và cô đơn...
Quý vị vừa thưởng thức một vài sáng tác của hai tác giả Nguyễn Thị Hậu và Tiều Anh đóng góp trong tuyển tập thơ Bông và Giấy gồm tác phẩm của ba mươi nhà thơ do Lao Động xuất bản và phát hành mới đây. Hy vọng trong thời gian khá chật hẹp của trang VHNT chúng tôi đã phần nào mang được đến với quý vị những con chữ, những ý tưởng tài hoa của hai tác giả nữ này. Xin hẹn gặp lại quý thính giả trong chương trình kỳ tới....
Theo dòng thời sự:
- Cao Xuân Huy và “Tháng Ba gãy súng”
- Nhà thơ Trần Yên Hòa và thi tuyển “Uyên Ương, Phượng Hề, và Khát Vọng”
- Hữu Loan – Hai mối tình, hai bài thơ
- “Trăng Nghẹn” bị nghẹn giải thưởng
- Nhà thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh
- Ngày Thơ Việt Nam
- Nhà khảo cổ học TS Nguyễn Thị Hậu và Hội thảo 100 năm nghiên cứu văn hóa Sa Huỳnh