Kênh đào Đế chế Phù Nam: “âm mưu thâm độc của Bắc Kinh”?
2023.10.16
Dự án kênh đào “Funan Techo Canal” (“Kênh đào Đế chế Phù Nam”) của Campuchia đang nhận được sự quan tâm rộng rãi từ giới chuyên gia về sông Mekong nói chung và Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) ở Việt Nam nói riêng.
Tiếp theo bài phỏng vấn TS. Brian Eyler ở Stimson Center, RFA xin giới thiệu những phân tích của Kỹ sư Phạm Phan Long, Chủ tịch Viet Ecology Foundation- một Tổ chức Phi chính phủ (NGO) ở Hoa Kỳ, về đại dự án trên.
Dựa trên cơ sở phân tích các thông số kỹ thuật và thiết kế của đại dự án kênh đào này, ông Phạm Phan Long cho rằng đây là một bước đi chiến lược của Trung Quốc để đánh vào hạ lưu sông Mekong. Ông nhấn mạnh, do đó hai quốc gia Campuchia và Việt Nam cần hợp tác thay vì chia rẽ nhau để cùng bảo vệ môi trường sống cho chính mình.
RFA: Theo ông, dự án này có ý nghĩa gì với Campuchia? Trung Quốc liên quan như thế nào? Việt Nam có liên quan đến các thủ tục duyệt xét dự án này hay không?
Phạm Phan Long: Ủy ban sông Mekong quốc gia Campuchia đã công bố bản thông báo về kế hoạch đào kênh Phù Nam dưới tên Funan Techo Canal, dài 180 km, rộng 80 m tới 100 m, mực nước 4,7 m.
Kênh đào này bắt đầu từ sông Mekong, nối sang sông Bassac và hướng ra vịnh Thái Lan. Song song hai bên kênh sẽ có 200 km đường cao tốc kết nối các thị trấn. Khi có hạ tầng cơ sở, phương tiện giao thông và nguồn cung cấp nước, tiềm năng phát triển kinh tế đồng bằng Tây Nam của Campuchia sẽ vực dậy. Kênh Phù Nam đã được chính quyền Campuchia đánh giá có khả thi kinh tế rất cao.
Công ty quốc doanh China Communication Construction của Trung Quốc đã bí mật thực hiện nghiên cứu khả thi dự án này từ 2021. Công trình này sẽ được tài trợ bởi chương trình Vành đai Con đường (BRI) của Trung Quốc với kinh phí 1,7 tỉ Mỹ kim.
Vào Thế kỷ 13, Trung Quốc đã đào Đại Vận Hà dài 1.800 km cho dân tộc họ, đến nay vẫn là con kênh dài nhất thế giới, kênh Phù Nam có thể xem là một Đại Vận Hà của Vương Quốc Cam Bốt và dân tộc Khmer.
Hình 1. Kênh Phù Nam, Funan Techo Canal. Nguồn: Mekong River Commission. (Ảnh và chú thích: Kỹ sư Phạm Phan Long.)
Theo quy định “Thủ tục thông báo, tham vấn trước và thỏa hiệp” (Procedures for Notification, Prior Consultation, and Agreement, viết tắt là PNPCA) của Ủy hội Sông Mekong (Mekong River Commission, MRC) và Hiệp Định Mekong 1995, thì Campuchia có trách nhiệm cung cấp báo cáo khảo sát kỹ thuật (Technical Review Report, TRR) với đánh giá tác động môi trường xuyên biên giới (TbEIA/ Environmental Impact Assessment) đối với kênh đào Phù Nam của họ.
Thủ tục PNCPA của MRC gồm ba giai đoạn: Thông báo-Tham Vấn và Thỏa hiệp. Việt Nam không có trách nhiệm soạn thảo TRR/EIA và nộp cho Campuchia như họ gởi văn thư yêu cầu. Việt Nam cũng không thể tự làm được vì không nắm được thiết kế, thông số và quy trình vận hành. Do đó không ai có thể đánh giá dự án này theo khoa học được nếu chỉ có bản Thông báo, một “Prior Notification” rất sơ lược.
RFA: Ông có nhận xét, trao đổi gì với các chuyên gia khác về tác động môi trường, kinh tế, xã hội của đại dự án giao thông thủy này của Campuchia tới bản thân Campuchia và Việt Nam?
Phạm Phan Long: TS. Brian Eyler, Stimson Center (Mỹ), được Radio Free Asia phỏng vấn đã phát biểu rằng: Dự án kênh đào nhân tạo này có thể là chiếc đinh cuối cùng đóng vào quan tài (Đồng bằng sông Cửu Long), và do đó, cần có nhiều nghiên cứu hơn để hiểu rõ ảnh hưởng của nó. Ông cho rằng kênh đào này cần ít nhất 77 triệu mét khối nước để lấp đầy kênh khi nó hoàn thành. Như vậy, nó sẽ hạ thấp mực nước sông Mekong ở khu vực Phnomphenh và ĐBSCL ở Việt Nam. Nó cũng sẽ tác động nguy hại đến dòng chảy ngược vào Hồ Tonle Sap, một quá trình tự nhiên hiện đang giúp duy trì chủ yếu ngành ngư nghiệp nội địa của Campuchia và nông nghiệp ở ĐBSCL ở Việt Nam.
Trao đổi với chúng tôi và các nhà nghiên cứu khác, Kỹ sư Thuỷ học Đỗ Văn Tùng, P.Eng, từng là kỹ sư tham vấn cho nhiều công ty Mỹ và Canada, cho rằng:
“Nếu con kênh này bắt đầu từ Prek Takeo nối dòng chính sông Mekong và sẽ gặp sông Bassac ở hạ lưu. Sau khi hoàn thành, con kênh dài 180 km này sẽ cần khoảng 80 triệu mét khối nước để thông thương. Sau đó lưu lượng dòng chảy trong kênh sẽ tùy thuộc vào chênh lệch cao độ giữa đầu và cuối con kênh, cùng với ảnh hưởng của thủy triều. Lưu lượng nước này sẽ lấy từ sông Mekong và Bassac. Ảnh hưởng như thế nào ở mỗi mùa đối với Biển Hồ Tonle Sap và Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) vẫn chưa rõ. Cần phải có một mô hình điện toán về thủy lực [Hydraulic modeling] mới tính được chính xác. Nhưng có một điều chắc chắn là trong mùa khô nước ở ĐBSCL sẽ ít hơn làm vấn đề nhiễm mặn trầm trọng hơn.”
Theo tôi, ngoài những tác động như trên, Kênh đào Phù Nam còn có khả năng tác động tới ĐBSCL ở những khía cạnh khác nữa.
Ngoài dung tích 77 triệu mét khối dung tích cần có ban đầu, phải tính thêm lượng nước hàng năm các âu tàu phải xả ra là 113 triệu mét khối. Đáng quan tâm hơn nữa là về sau khi có con kênh này rồi, Campuchia có thể đơn phương bơm nước từ kênh này ra tưới khắp châu thổ vùng Takeo suốt lộ trình 180 km cho tới vịnh Thái Lan. Khi đó Campuchia không phải chỉ cắt 113 triệu mét khối mỗi năm không cho về châu thổ Cửu Long như họ thông báo, mà sẽ nhiều lần hơn thế, không thể nào lường được, lúc đó Việt Nam có lẽ sẽ bó tay.
Kênh Phù Nam sẽ gây tác động nhất định lên Biển Hồ Tonle Sap. Chính bản thân Campuchia phải rất quan tâm vì nhiều năm rồi Biển Hồ đã bị mất dần nhịp lũ. Khi thêm kênh Phù Nam cùng chảy với sông Tiền và Hậu ra biển Đông thì liệu nhịp lũ cho Biển Hồ còn tồn tại được không?
Thật vậy, nhóm nghiên cứu của TS. Samuel De Xun Chua, Department of Geography, National University of Singapore, đã khảo sát nhịp lũ suốt 60 năm tại Biển Hồ và công bố tình trạng suy thoái như sau:
“Chúng tôi thấy rằng thời gian mùa lũ đã giảm khoảng 26 ngày (Kampong Cham) và 40 ngày (Chaktomuk), mùa lũ bắt đầu muộn hơn và kết thúc sớm hơn nhiều. Dọc sông Tonle Sap, dòng chảy ngược trung bình hàng năm từ sông Mê Kông đến hồ Tonle Sap đã giảm 56,5 %, từ 48,7 km3 năm 1962–1972 xuống còn 31,7 km3 năm 2010–2018. Kết quả là mực nước mùa mưa tại hồ Tonle Sap giảm 1,05 m trong năm 2010–2019 so với năm 1996–2009, tương ứng với diện tích hồ giảm 20,6 %.” (Xem trên tạp chí “Hydrology and Earth System Sciences” của Liên minh khoa học địa chất châu Âu.)
Với những nguy cơ to lớn mà dự án kênh đào Phù Nam có thể gây ra, “Báo cáo đánh giá tác động môi trường xuyên biên giới” của dự án này cần phải xét tác động tích hợp của kênh đào này cùng với hoạt động của các đập thủy điện trong toàn lưu vực, qua các tình huống mưa nhiều cũng như khô hạn. Vận chuyển trên kênh phải tùy vào mực nước ấy.
Bên cạnh đó, phạm vi nghiên cứu đánh giá tác động môi trường cần phải có Biển Hồ, lưu vực Tonle Sap ở Campuchia và ĐBSCL ở Việt Nam, từ Nam Vang theo các dòng nước ra biển Đông, vì đó là một hệ sinh thái không thể tách riêng khi khảo sát ảnh hưởng tác động môi trường.
RFA: Theo ông, Việt Nam nên hợp tác và thương lượng với Campuchia ra sao để bảo vệ lợi ích của mình và giảm thiểu những nguy hại tiềm năng mà dự án này có thể gây ra?
Phạm Phan Long: Việt Nam có khá nhiều phương cách ràng buộc Campuchia tuân theo các thủ tục của MRC để kiểm soát kênh Phù Nam. Giới hạn trọng tải tàu thuyền trên kênh Phù Nam theo đúng công bố của Campuchia là 1000 DWT. Nam Vang sẵn có hai thương cảng, có khả năng cho tàu 2000 DWT và 5000 DWT ra vào nên Campuchia sẽ vẫn cần vận chuyển tàu bằng sông Tiền và có thể cả sông Hậu. Do đó Việt Nam có tư thế thảo luận với Campuchia với tiếng nói trọng lượng.
Về chiến lược, đối với Mekong River Commission (MRC), Việt Nam và Campuchia đều không có chiến lược lớn, nên chưa hề ngăn được một con đập nào mà đã mất nhịp lũ, phù sa và nông ngư sản. Thậm chí, cả hai còn bị hạn hán giữa mùa mưa, xâm mặn ngày càng sâu. MRC đã trở thành cao tốc thông thoáng cho các đập Xayaburi, Don Sa Hong, Pak Lay, Pak Beng, Sanakham và Luang Prabang của Lào. Các đập này lần lượt được MRC thông qua, có Trung Quốc và Thái Lan sẵn sàng tài trợ và cố vấn.
Với kênh Phù Nam, Việt Nam có thể đặt Campuchia trước trách nhiệm bảo vệ lưu vực, đúng theo 5 Thủ tục và Hướng dẫn MRC đã thông qua, đặc biệt nhất là cho dòng chính với “Quy trình duy trì dòng chảy trên dòng chính” (“Procedures for the Maintenance of Flows on the Mainstream”):
- Từ thông báo đến thỏa hiệp (PNPCA).
- Theo dõi, báo cáo vận hành kênh đào, không vi phạm những thông số giới hạn đã quy định (tức “Quy trình giám sát sử dụng nước”, hay “The Procedure of Water Use Monitoring”, PWUM).
- Bảo trì lưu lượng cần thiết tại dòng chính theo từng tháng (PMFM) Mekong và Bassac. Xem Hình 2, kênh Phù Nam sẽ không được chuyển nước gây xâm phạm vào lượng nước cung cấp cho hạ du sử dụng và đáp ứng nhu cầu sinh thái.
- Bảo vệ chất lượng nước sông (Procedures for Water Quality, PWQ).
- Cung cấp thông tin và số liệu quan trắc (Data and information sharing, PDIES).
Hình 2. Đường màu đỏ là mức nước dòng chính cần phải bảo vệ theo PMFM. Nguồn MRC.
Nếu Campuchia tuân theo những hướng dẫn ở trên, nhất là PMFM cho Châu Đốc, Tân Châu và Biển Hồ, cùng với các tác động môi sinh có biện pháp giảm thiểu được, thì cơ hội hợp tác hai nước ở dự án kênh Phù Nam này không phải là không thể trở thành sự thật.
RFA: Việt Nam và Campuchia có cần hay không một cơ chế rộng hơn Ủy hội Sông Mekong để phát triển khả năng hợp tác nhằm bảo vệ lợi ích của cả hai nước?
Phạm Phan Long: Từ 1995, Trung Quốc đã kích động sự chia rẽ giữa hai dân tộc Campuchia - Việt Nam, khiến họ không hậu thuẫn cho nhau để Trung Quốc và Lào khai thác thủy điện trên dòng Mekong. Trung Quốc dẫn dắt Lào, biến họ trở thành bình điện của Đông Nam Á. Kết quả trước mắt là Campuchia và Việt Nam hưởng ít lợi nhất, nhưng gánh tất cả thiệt thòi.
Tình trạng bất công nói trên vi phạm tôn chỉ của Công ước Liên Hiệp quốc 1997 cho các dòng sông quốc tế. Nguyên tắc không gây nguy hại (Do no harm) và chia sẻ công bằng hợp lý (Equitable and Reasonable Utilization ) giữa các nước không được thực hiện, mà tổ chức MRC nghiễm nhiên đi ngược với tôn chỉ của Hiệp định 1995 lập ra tổ chức này.
Kênh Phù Nam có thể là cái đinh cuối cùng đóng trên nắp quan tài ĐBSCL theo quan sát của TS. Brian Eyler. Trung Quốc đã đem quan tài này để Campuchia và Việt Nam xô đẩy nhau ngã vào. Kênh Phù Nam với quyết tâm của Campuchia có lẽ sẽ tiến hành, Việt Nam có thể phản đối, như từng phản đối các dự án của Lào. Nhưng có lẽ cả hai sẽ cùng đạt được lợi ích chung, nếu Việt Nam thỏa hiệp được với Campuchia, để cả hai cùng nhau bảo vệ Biển Hồ và ĐBSCL, dựa vào các thủ tục và quy định của MRC nói trên.
Trước dự án kênh Phù Nam, Campuchia và Việt Nam cần tìm cách hợp tác và tránh gây tranh chấp. Hai nước không nên để cho Trung Quốc khai thác cơ hội biến Phù Nam thành biểu tượng xung đột giữa hai dân tộc. Campuchia và Việt Nam đều phải nhận thấy âm mưu thâm độc của Trung Quốc và nhảy ra khỏi cỗ quan tài “Made-in-China” bằng một liên minh chiến lược toàn diện, bảo vệ quyền lợi một lưu vực chung cho cả hai nước Campuchia - Việt Nam.
Mục đích hợp tác chiến lược ở mức cấp cao nhất cho hai nước là cùng làm bản tuyên ngôn chung “Không chấp nhận cho thêm con đập nào nữa”, và “Yêu cầu giới hạn hoạt động các đập thượng nguồn, để bảo vệ và phục hồi nhịp lũ cho môi sinh Biển Hồ, vựa cá của dân tộc Campuchia và ĐBSCL, vựa thóc của dân tộc Việt Nam.”
Trong tương lai xa, hai nước cần nhắm tới một hiệp ước toàn lưu vực, đầy đủ và chặt chẽ hơn Hiệp định 1995. Những mô hình mà hai nước có thể tham khảo là “Sáng kiến Lan Thương-Mekong” (“Lancang-Mekong Initiative”) hay một “Hiệp ước sông Mekong” (“River Treaty”) theo Công ước 1997 của Liên Hiệp quốc. Ngoài ra, hai nước nên thành lập “Quỹ Lan Thương - Mekong” (“Lancang-Mekong Fund”) để trợ giúp dân cư khắp lưu vực, nhằm chia sẻ lợi ích và đền bù thiệt hại công bằng cho họ.
RFA: xin cảm ơn Kỹ sư Phạm Phan Long đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.