Liều thuốc nào cho thị trường tài chính Việt Nam?

Nhà nước Việt Nam đề chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế cho năm 2008 ở mức 7% GDP thay vì 8-9% như các năm trước. Đây có phải là biện pháp khắc phục khi kinh tế trên bờ vực lạm phát, thị trường nhà đất suy trầm, và sàn chứng khoán tuột dốc?

0:00 / 0:00

Chuyên gia kinh tế tài chín Bùi Kiến Thành, người từng ở nước ngoài nhiều năm, từng là cố vấn cao cấp của tập đoàn kinh tế American International Group và hiện đang cố vấn cho công ty kinh doanh Đại Á ở Hà Nội, trao đổi với phóng viên Thanh Trúc các nhận định và phân tích về thực trạng kinh tế Việt Nam hiện nay:

Ông Bùi Kiến Thành: Trong năm 2008 này nền kinh tế Việt Nam có lẽ là đi tới một tình trạng gọi là nóng máy. Có thể nói vì mãi mê về vấn đề tăng trưởng mà quên cái mặt trái của tăng trưởng tức là nó gây ra lạm phát. Tình hình kinh tế của Việt Nam năm 2008 này là phải làm sao để mà khống chế lạm phát và dung hoà vấn đề tăng trưởng thế nào cho hợp lý . Và bây giờ tới cuối năm thì còn nhiều vấn đề khó khăn trong mọi lãnh vực.

Thanh Trúc: Thưa ông Bùi Kiến Thành, chính phủ đề ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế cho năm 2008 ở mức 7% GDP, ông nghĩ như thế nào?

Bùi Kiến Thành
chuyên viên kinh tế tài chính Bùi Kiến Thành (Hình từ VietnamNet)

Ông Bùi Kiến Thành: Đó là một sự có thể nói là bừng tỉnh lại từ trong chính phủ cũng như trong quốc hội, vì trước kia quốc hội đặt mức tăng trưởng tới 8-9% lận. Thế thì nhận thấy rằng tiêu chuẩn như vậy sẽ đưa ra vấn đề rất là khó khăn cho guồng máy kinh tế của Việt Nam và nhận xét rằng nó đẩy lạm phát lên quá cao, cho nên nhà nước tính lại và thấy rằng mức 7% là hợp lý. Tôi nghĩ 7% cũng là hợp lý đấy nhưng mà chưa chắc đã là mức thực tế. Có thể mức thực tế khoảng chừng dưới 7% hay 6% gì đấy. Đây cũng là sự nhận xét của Viện Nghiên Cứu Kinh Tế Quốc Gia, vì 6% dễ khống chế lạm phát hơn là 7% .

Thanh Trúc: Theo ông những trở lực nào hạn chế hiệu quả của các biện pháp chính phủ đề ra?

Ông Bùi Kiến Thành: Chính phủ để ra những biện pháp ví dụ như khống chế chi tiêu của quản lý nhà nước, tức là chi phí công, phải giảm đi 10%, ngăn chặn vấn đề đầu tư dàn trải trong những công trình và nhất là ở trong các công ty xí nghiệp quốc doanh. Nội hai cái đấy không cũng đã rất là khó. Tại vì hiện nay các nơi từ địa phương tới trung ương cũng không thấy làm sao mà khống chế được cái vấn đề giảm chi phí công. Có nhiều nơi có thể giảm được nhưng không chấp hành lịnh của chính phủ, mà lịnh của chính phủ thì không đủ lực để mà thật sự chỉ huy cấp thừa hành. Trên nói mà dưới không nghe thì không thực hiện được vấn đề giảm chi phí.

Còn về các tập đoàn kinh tế quốc doanh, người ta rất là dàn trải đầu tư vào trong những lãnh vực không phải là lãnh vực kinh doanh chính của các tập đoàn đấy. Muốn cắt giảm cái đấy thì cũng không đơn giản tại vì nhà nước không có sự quản lý thế nào để mà chỉ đạo cho các tập đoàn đó phải cắt giảm. Đây là một trong những vấn đề rất là căng thẳng đối với lại vấn đề quản lý cắt giảm chi phí công và đầu tư dàn trải, nó khiến cho việc khống chế lạm phát rất là khó thực hiện.

Thanh Trúc: Thưa, đó là nói về các trở ngại, còn theo ông thì những khó khăn nào gọi là lớn nhất cho nền kinh tế Việt Nam hiện nay?

Ông Bùi Kiến Thành: Khó khăn lớn nhứt hiện giờ là vấn đề ngân hàng, tín dụng. Nhà nước khống chế tăng trưởng tín dụng năm nay là 30% thay vì là 50% như năm rồi. Nhưng điều đó đưa đến những vấn đề rất quan trọng đối với lại các xí nghiệp, tại vì hiện nay các xí nghiệp khó vay tiền để mà sản xuất kinh doanh khiến đưa tới chỗ đình trệ trong rất nhiều lãnh vực. Thế nên các tập đoàn dệt may, thuỷ sản, bất động sản ,v.v. đương gặp khó khăn vì không có tín dụng đủ để làm việc.

Còn các ngân hàng thì lại cho vay quá mức. Cả hệ thống ngân hàng phải đối diện với thách thức là sẽ gặp khó khăn về thanh khoản: các ngân hàng không đủ vốn để có thể giải quyết những vấn đề mà ngân hàng cần phải làm. Đây là vấn đề cực kỳ nguy hiểm! Nếu mà hệ thống ngân hàng sụp đổ thì cả nền kinh tế sẽ bị ảnh hưởng rất lớn.

Thanh Trúc: Ông đánh giá thế nào về thị trường chứng khoán Việt Nam?

Ông Bùi Kiến Thành: Thị trường chứng khoán Việt Nam trong năm 2006 qua đến năm 2007 phát triển một cách không hợp lý. Chỉ số VN Index lên rất là cao và giá trị của cổ phần rất là ảo, tức là trị giá cổ phần cao hơn lợi nhuận tới 30-60 chục lần thì hoàn toàn không hợp lý. Trong năm 2007 nó bắt đầu có sự điều chỉnh và qua 2008 nó điều chỉnh xuống lại. Trong từ đầu năm 2008 đến bây giờ chỉ số VN Index đã rớt xuống dưới 450, từ mức cao nhất 1178 trong năm 2006, như vậy là đã mất hơn 50% giá trị của các cổ phần trên thị trường.

Đây cũng là điều bình thường tại vì thật sự giá trị của các cổ phần không thể cao như trong những năm qua được, nhưng mà cái nguy hiểm bây giờ là không thấy cái đáy của sự rớt xuống. Lý do là một số đông những người đầu tư Việt nam không quen thuộc với những phân tích tài chính, phân tích kỹ thuật của các công ty để mà mua. Họ không phải những nhà đầu tư chuyên nghiệp. Vì vậy khi mua thì họ ào ào nhau mua với giá rất là cao, mua kịch trần luôn, mà khi bán thì ào ào ra bán, bán đỏ bán tháo kịch sàn.

Hiện bây giờ là cứ đổ ra bán thôi chứ ít người mua nên để thấy nó sẽ đến cái mức đáy ở đâu cũng rất là khó. Làm sao để nó có thể hồi phục được thì tới một lúc nào đấy những người đầu tư không phải chuyên nghiệp sẽ ra khỏi thị trường và những nhà đầu tư biết cách phân tích lần lần ổn định lại. Và có lẽ rằng thị trường bây giờ tới cuối năm nó vẫn sẽ bình bình ở cái khoảng 400-500 gì đấy, sau đó nó sẽ phát triển một cách ổn định hơn với một mức thực tế hơn.

Thanh Trúc: Thưa ông Bùi Kiến Thành, đâu là lối ra cho nền kinh tế Việt Nam hiện nay?

Ông Bùi Kiến Thành: Từ trước đến nay nhân sự là vấn đề quan trọng, mà nhân sự Việt Nam, các nhà quản lý kinh tế Việt Nam bây giờ vốn được huấn luyện trong nền kinh tế tập trung và nền kinh tế kế hoạch nên chưa có đủ kinh nghiệm và khả năng hoạt động trong nền kinh tế thị trường.

Vấn đề cốt lõi là làm sao có được nhân sự có đủ khả năng, có đủ kinh nghiệm hoạt động trong nền kinh tế thị trường trong hội nhập quốc tế. Đây là một cái trách nhiệm cực lớn cho các lãnh đạo nhà nước, bố trí cho được nhân sự để mà thực hiện việc đấy. Cho nên cốt lõi vẫn là vấn đề khả năng quản lý của các nhà quản lý kinh tế.

Ở các nước khác, khi nào có trường hợp như vậy thì người ta phải thay thế những người không có khả năng bằng những người có khả năng. Nhưng ở Việt Nam cái việc thay thế cái tập thể lãnh đạo về kinh tế Việt Nam không có đơn giản như ở các nước khác. Mấy ngày vừa rồi Quốc Hội đặt vấn đề nơi nào là trách nhiệm về tình hình kinh tế hiện nay, địa chỉ nào là trách nhiệm, Bộ nào là trách nhiệm, cơ quan nào trách nhiệm, những câu hỏi đó của Quốc Hội cũng chưa có được câu trả lời.

Nhưng mà nói chung là sự chuyển đổi từ một nền kinh tế tập trung - kế hoạch qua nền kinh tế thị trường thì cần phải có những nhân sự phù hợp để thực hiện việc đấy, thì hiện nay Việt Nam chưa sắp xếp được nhân sự để thực hiện cái việc này. Vì vậy cho nên rất là nguy hiểm nếu không có thuyền trưởng tốt thì không thể nào lái một con thuyền đi ra biển trong bão táp được. Cho nên đây là việc lãnh đạo nhà nước cần phải quan tâm.